Chào các thành viên Group Tôi học Thẩm định giá,
Tại topic trước, tôi có
khơi chủ đề thảo luận về định giá Giá trị mỏ tài nguyên, giá trị quyền khai
thác mỏ tài nguyên và giá trị dự án khai thác mỏ tài nguyên.
Trên thực tế nhiều người
đang làm theo hướng thấy đinh là gõ. Dù định giá cái nào trong list trên cũng
auto lấy doanh thu từ khai thác và bán tài nguyên trừ các chi phí sau đó chiết
khấu về hiện tại. Nếu vậy thì, giá trị 3 tài sản này hóa ra lại giống nhau ?
Hãy thử cùng suy nghĩ kỹ
hơn về sự khác biệt giữa 3 tài sản này. 
(Các nội dung dưới đây dựa vào kiến thức của bản thân, thể hiện quan điểm và góc nhìn của tôi, không phải cuốn sách hay giáo trình nào viết, cũng không phải văn bản pháp luật nào. Vui lòng dẫn nguồn nếu trích lại. Trong trường hợp bạn thấy phù hợp và muốn vận dụng, hãy đảm bảo bạn hiểu chính xác những gì tôi nói, hiểu chính xác về tài sản cần thẩm định giá thuộc loại nào, cũng như hiểu rõ các phương pháp TĐG áp dụng. Chẳng hạn, không nên nhầm lẫn giữa DCF và phương pháp thặng dư như thực trạng phổ biến hiện nay trong giới TĐG Việt Nam).
* Để thận trọng, ở đây
tôi tạm thời ko phân biệt rạch ròi giữa resource và reserve mà coi như giống
nhau để tập trung vào khía cạnh định giá. Việc thảo luận 2 khái niệm này là vấn
đề dài dòng khác. Resource là phần khoáng sản được phát hiện, chưa chứng minh
chắc chắn về khả năng khai thác. Reserve được chứng minh có thể khai thác một
cách kinh tế và kỹ thuật tại thời điểm đánh giá (mức độ chắc chắn cao hơn). Mọi
reserve đều là resource nhưng ko phải mọi resource đều là reserve.
Giá trị mỏ tài nguyên
cũng là giá trị của quyền sở hữu mỏ. Giá trị mỏ chính là giá trị kinh tế
của trữ lượng khoáng sản tiềm năng trong mỏ, giá trị mỏ vẫn có thể tồn tại cả
sau khi hết thời hạn khai thác, miễn là mỏ chưa cạn kiệt (mỏ khô). Do đó, nó có
thể được ước lượng bằng cách chiết khấu dòng tiền thuần từ việc khai thác toàn
bộ trữ lượng mỏ hoặc bằng phương pháp OPM. Đôi khi người ta bỏ qua việc chiết
khấu mà lấy trữ lượng nhân với giá thị trường điều chỉnh với giả định mỏ có thể
khai thác và bán ngay lập tức toàn bộ. 
2. Giá trị quyền khai
thác mỏ
Cái tên nói lên tất cả,
đây là quyền khai thác trong khoảng thời gian hữu hạn (chẳng hạn 25 năm), ko phải
quyền sở hữu mỏ. Do vậy, cách định giá là chiết khấu dòng tiền thuần trong thời
hạn khai thác và ứng với trữ lượng khoáng sản được phép khai thác
quy định trong giấy phép. 
Trong bối cảnh Việt Nam,
chi phí cấp giấy phép lần đầu có thể là giá trị sổ sách của quyền khai thác mỏ,
nhưng chưa chắc đã là giá trị thị trường. Và dòng tiền thuần được ước tính là
khác nhau trong nhiều trường hợp, tùy vào hiện trạng tài sản TĐG của bạn là gì.
Cần lưu ý rằng theo điều
58 Luật Khoáng sản 2024 quy định: “Tổ
chức, cá nhân đã được cấp giấy phép khai thác khoáng sản chỉ được chuyển nhượng quyền khai thác khoáng sản sau khi
đã hoàn thành công tác xây dựng cơ bản, đưa mỏ vào khai thác… Thời hạn khai
thác khoáng sản là thời gian còn lại của giấy phép khai thác khoáng sản đã cấp…”
Do đó, tài sản TĐG trong trường hợp chuyển nhượng quyền khai thác
rất khác với trường hợp cấp lần đầu vì NĐT không mất thêm chi phí xây dựng, mở
mỏ khi mua quyền khai thác khoáng sản được chuyển nhượng. Hiểu
nôm ra, giá trị tài sản TĐG bao gồm giá trị giấy phép khai thác + công trình đã
xây dựng.
3. Giá trị dự án khai
thác mỏ
Khác với quyền khai thác
mỏ và giá trị mỏ, giá trị dự án đầu tư khai thác mỏ là tổng tất cả các tài sản
của dự án, có thể ước tính bằng nhiều cách khác nhau (cách tiếp cận so sánh,
chi phí hay thu nhập; sử dụng kỹ thuật DCF hay OPM, và nếu là DCF thì sử dụng mô hình
nào…). Vốn lưu động, CapEx, các chi phí giải quyết môi trường, khôi phục nguyên
trạng (nếu có) vào cuối vòng đời dự án và nhiều khoản doanh thu, chi phí khác
cũng cũng cần xem xét đầy đủ.
Việc phân biệt rạch ròi (1),
(2) và (3) sẽ giúp giảm thiểu rủi ro trong định giá.