Hiển thị các bài đăng có nhãn Góp ý chính sách. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Góp ý chính sách. Hiển thị tất cả bài đăng

19/07/2024

Thời điểm Thẩm định giá

Tôi thấy có một thực trạng rằng ngay cả những thuật ngữ đơn giản (và ko kém phần quan trọng) vẫn chưa được quy định và hiểu thống nhất, chẳng hạn như "Thời điểm thẩm định giá". Rất nhiều công ty và Thẩm định viên đã sử dụng không thống nhất với nhau.

Ví dụ:

+ Thời điểm thẩm định giá doanh nghiệp, có công ty ghi cả 0h00p ngày dd/mm/yyyy. 


Có công ty ghi ngày dd/mm/yyyy.


+ Nhưng cũng không ít chứng thư lẫn báo cáo TĐG chỉ ghi tháng/năm (dd/yyyy)



Thời điểm thẩm định giá là một trong những khái niệm quan trọng nhất khi thực hiện Thẩm định giá. Cơ sở giá trị nào cũng đều nêu rõ "Tại thời điểm thẩm định giá", hoặc "vào thời điểm thẩm định giá". Chẳng hạn theo Thông tư 30/2024/TT-BTC quy định:

Cơ sở giá thị trường: Giá trị thị trường là khoản tiền ước tính để tài sản có thể được giao dịch tại thời điểm thẩm định giá giữa người sẵn sàng mua và người sẵn sàng bán trong một giao dịch khách quan, độc lập, sau khi được tiếp thị đầy đủ và các bên tham gia hành động có hiểu biết, thận trọng và không bị ép buộc.

Cơ sở giá trị thuê thị trường: Giá trị thuê thị trường là khoản tiền ước tính để được thuê một quyền lợi từ bất động sản tại địa điểm, thời điểm thẩm định giá giữa người sẵn sàng cho thuê và người sẵn sàng thuê theo các điều khoản thuê thích hợp trong một giao dịch khách quan, độc lập sau khi được tiếp thị đầy đủ và các bên tham gia hành động có hiểu biết, thận trọng và không bị ép buộc..... Trường hợp xác định giá trị thuê không thuộc một hợp đồng thuê thực tế, thì các điều khoản và điều kiện giả định của hợp đồng thuê giả định này phải được thị trường chấp nhận cho từng loại bất động sản giữa các bên tham gia thị trường vào ngày thẩm định giá.

Cơ sở Giá trị đầu tư: Giá trị đầu tư là số tiền ước tính tại thời điểm thẩm định giá của một tài sản đối với một chủ sở hữu cụ thể hoặc chủ sở hữu tiềm năng cho hoạt động đầu tư cụ thể hoặc các mục đích hoạt động cụ thể.

Giá trị bắt buộc phải bán phản ánh giá trị tài sản tại thời điểm thẩm định giá trong trường hợp người bán bắt buộc phải bán tài sản trong một thời gian hạn chế, dẫn tới không thực hiện được việc tiếp thị đầy đủ và người mua có thể không được kiểm tra về nhiều mặt liên quan đến tài sản một cách đầy đủ. Bắt buộc phải bán là tình huống mà giao dịch dự kiến được diễn ra

Giá trị ngang bằng là mức giá ước tính cho việc chuyển nhượng của tài sản giữa hai bên đã được xác định cụ thể, có hiểu biết và sẵn sàng mua bán tại địa điểm, thời điểm thẩm định giá; mức giá này phản ánh lợi ích tương ứng của các bên.

Điều này có nghĩa là gì, thời điểm thẩm định giá phải được hiểu thống nhất và sử dụng nhất quán, không thể lúc thì thời điểm được hiểu theo ngày/tháng/năm, lúc thì tháng/năm (một khoảng rộng hơn nhiều).

...

Vậy thế nào là thời điểm ? Thời điểm khác gì với khoảng thời gian ?

Theo Điều 144 và 147 Luật Dân sự 2015, Thời hạn là một khoảng thời gian được xác định từ thời điểm này đến thời điểm khác. Còn thời điểm bắt đầu thời hạn:

1. Khi thời hạn được xác định bằng phút, giờ thì thời hạn được bắt đầu từ thời điểm đã xác định.

2. Khi thời hạn được xác định bằng ngày, tuần, tháng, năm thì ngày đầu tiên của thời hạn không được tính mà tính từ ngày tiếp theo liền kề ngày được xác định.

3. Khi thời hạn bắt đầu bằng một sự kiện thì ngày xảy ra sự kiện không được tính mà tính từ ngày tiếp theo liền kề của ngày xảy ra sự kiện đó.

Như vậy, theo Luật Dân sự 2015, thời hạn là khoảng giữa 2 thời điểm. Còn thời điểm xác định rộng nhất là tính từ ngày cụ thể, hẹp hơn là phút, giờ của ngày cụ thể.

Nhìn sang ngành thường được cho là gần gũi với thẩm định giá là kế toán. Chúng ta vẫn biết các chỉ tiêu trong Bảng cân đối kế toán (BS) là các chỉ tiêu trong mang tính thời điểm, do vậy BS luôn ghi rõ ngày cụ thể, chẳng hạn ngày 31/12/N. Nhưng các chỉ tiêu trong Báo cáo Kết quả kinh doanh (IS) lại mang tính thời kỳ (hay một khoảng thời gian), nên người ta thường ghi báo cáo KQKD quý I/II/III/IV hoặc cả năm 202x. Hoặc có thể ghi từ ngày dd/mm/yyyy đến ngày dd/mm/yyyy.

Cũng phải nhắc lại rằng, các cơ sở giá trị trên được tham khảo từ Tiêu chuẩn Thẩm định giá Quốc tế IVS. Nên điều quan trọng cần phải tìm hiểu xem IVS đang quy ước thế nào về thời điểm thẩm định giá. "Thời điểm thẩm định giá" được dịch từ thuật ngữ "Valuation date" trong IVS.

Phiên bản IVS mới nhất hiện nay (có hiệu lực từ 31/01/2025) quy ước Valuation Date là "The point in time to which the valuation applies." 

Vậy định dạng của date thế nào ? Tôi lấy ví dụ 2 trong số 4 big4 TĐG BĐS trên thế giới (tất nhiên tôi đã xem 1 số lượng nhiều báo cáo hơn thế này, nhưng vì chúng tương tự nhau, tôi chỉ trích đăng 2 là đủ).

+ Báo cáo thẩm định giá của CBRE (nước ngoài, ko phải CBRE Việt Nam), xem Date of value


+ Báo cáo của JLL (cũng bển), xem dòng cuối cùng

Tất nhiên hiện nay, Chuẩn mực TĐG cũng chưa quy định cụ thể, rõ ràng về "thời điểm thẩm định giá". Vậy với những thông tin tôi cung cấp ở trên, các bạn nghĩ thế nào về Thời điểm thẩm định giá (Valuation date) ?

Cùng join group để vote ý kiến nhé. 



22/06/2024

Vốn lưu động và Vốn lưu động ròng

 "Vốn lưu động (Working Capital) là gì và Vốn lưu động ròng/Vốn lưu động thuần (Net Working Capital) là gì ?"

Trên là câu hỏi tôi thường nêu ra trong lớp để thảo luận, và gần nhất là đăng trên Group Tôi học Thẩm định giá. Mục đích không phải để phân định đúng sai, tôi muốn nghe góc nhìn của học viên cũng như những gì mọi người được biết, hoặc từng được đọc. Đối với tôi, thuật ngữ bản thân nó không có đúng sai. Thuật ngữ là những quy ước chung về cách gọi tên, để giúp mọi người xác nhận rằng khi nói tới "thuật ngữ" thì đều hiểu theo cùng một cách và nhìn về cùng một hướng. 

Để tránh có nhiều "phương ngữ", nhiều tên gọi cho cùng một thứ, người ta cần xây dựng 1 thuật ngữ chung. Điều gì xảy ra nếu có quá nhiều "thuật ngữ" cùng chỉ 1 thứ (hoặc không chắc rằng nó có phải đang nói về cùng 1 thứ hay không) ? Câu hỏi này các bạn tự trả lời và có thể chia sẻ câu trả lời của mình. Tôi chỉ xin dẫn ra những "phương ngữ" ở Việt Nam. cùng ám chỉ một thứ là Vốn lưu động.

Chuyên đề Tài chính, Tài liệu Ôn thi CPA năm 2023 (Bộ Tài chính)
Vốn lưu động = vốn ngắn hạn =  vốn luân chuyển = vốn lưu chuyển
vốn luân chuyển thuần = nguồn vốn lưu động thường xuyên



Trong Đề thi CPA môn Tài chính năm 2022, có yêu cầu tính "Vốn lưu động" lẫn "Vốn lưu động ròng" ?

Không chỉ trong kỳ thi CPA của Bộ Tài chính, mà kể cả trong các thông tư của Bộ Tài chính soạn thảo về tiêu chuẩn thẩm định giá số 12 về thẩm định giá doanh nghiệp, cũng sử dụng lúc thì vốn lưu động, lúc thì vốn luân chuyển thuần, và còn đặt tên cho vốn lưu động không gồm tài sản phi hoạt động ngắn hạnvốn hoạt động thuần (?!)
Có những cuốn sách tài chính cũng viết rất sai, "Vốn lưu động là tất cả tài sản ngắn hạn", đơn cử như cuốn sách Quản trị Tài chính dưới đây, khiến nhiều người học hiểu lầm. 
Liệu có hợp lý khi sách nói vốn lưu động = tất cả tài sản ngắn hạn ? 
Thực ra Vốn lưu động (Working Capital) và Vốn lưu động ròng/thuần (Net Working Capital) là cái gì ? Nó là một thôi à, là chênh lệch giữa tài sản ngắn hạn và nợ ngắn hạn. Hàm ý ở đây là Tài sản ngắn hạn (current assets) được tài trợ bởi 2 nguồn là Vốn lưu động (working capital) và Nợ ngắn hạn (current liabilities). Tôi trích đoạn từ cuốn BMA nổi tiếng bao gồm cả số trang. Bạn nào không biết thì tra google nhé. Đây là giáo trình tài chính doanh nghiệp chính thống của nhiều trường ĐH lớn của Hoa Kỳ, trong đó có MIT nên tôi miễn bàn về độ chính thống của nó. Các bạn có thể tìm thêm sách Tài chính Doanh nghiệp ứng dụng hoặc Định giá đầu tư của GS Damodaran (NYU) cũng tương tự. 


Ngoài ra các bạn có thể google các nguồn không chính thống cũng nhiều, chẳng hạn Investopia tại link dưới đây, họ cũng viết rõ "Working capital, also known as net working capital (NWC)". Như đã nói, bài viết này không nhằm phân định đúng sai, tuy nhiên đúng hay sai thì bạn đọc cũng tự cảm nhận được rồi. 

Hoặc trang web corporatefinanceinstitute.com của CFI cũng đưa ra cách tính Working Capital = Current Assets – Current Liabilities. 

Trang web chuyên kế toán (How to calculate working capital — AccountingTools) cũng tương tự: "Working capital is calculated by subtracting current liabilities from current assets". Vì vậy đừng nói rằng kế toán tính Working capital khác phân tích tài chính, khác quản trị doanh nghiệp, khác định giá. Nghe cùn lắm.



Tôi nghĩ các bạn đọc sách dịch cũng tốt, nhưng phụ thuộc vào nó vừa phải thôi và đừng coi như chân lý. Một ví dụ về cuốn truyện dịch của NXB Kim Đồng, tuổi thơ của thế hệ 8x-9x. Rất nhiều người hiểu câu chuyện này theo cách dịch của NXB Kim Đồng nhưng thực ra lại khác xa truyện gốc.



-----

P/S: Vì có bạn đọc phản biện và cop nhặt 1 link của NYU và nói rằng working capital và net working capital là khác nhau (?!). Tôi lại mất thời gian nhặt nội dung trong từng sách ra cho bạn thấy.

Sách Applied Corporate Finance (Damodaran) trang 169, Damodaran viết "Accountants define working capital as the difference between current assets (such as inventory and accounts receivable) and current liabilities (such as accounts payable and taxes payable)"

Trang 180, Damodaran tính Change in Working Capital để tính ra FCFF, chính là chỉ tiêu "chênh lệch vốn lưu động ròng/chênh lệch vốn hoạt động thuần" trong tiêu chuẩn TĐG VN số 12 (và là Chuẩn mực TĐG Việt Nam về TĐG Doanh nghiệp) và cách tính Working capital của Damodaran và cách tính Vốn lưu động ròng của Việt Nam đều là 1.. Sách nào ông cũng tính như vậy, tôi ko mất công search từng sách cho các bạn được.

Sách Investment Valuation - cuốn kinh điển của Damodaran về định giá, trang 49 có viết Net working capital = Current assets – Current liabilities.

Nhưng cũng cuốn sách này, trang 264 Damodaran viết "Working capital is usually defined to be the difference between current assets and current liabilities"
Đây cũng chính là công thức Net working capital. Các bạn sẽ thấy điều tương tự trong các sách khác của Damodaran gồm The little book of valuation, The darkside of valuation, Damodaran on valuation,...Tôi không muốn mất công ngồi nhặt lại vì một vấn đề ai cũng biết này.
Vì vậy như tôi nói ở trên, Net working capital và Working capital là một. 

Một cuốn sách khác tôi hay đọc là cuốn Investment (thường được gọi là sách BKM), đây cũng là cuốn sách rất nổi tiếng được dạy trong các Đại học hàng đầu về tài chính. Họ cũng tính Change in Working capital bao gồm cả "increase in other current liabilities" (vui lòng đừng cố suy diễn trước khi thử nháp ra làm ví dụ trong sách đó để hiểu).
Trang 617

Về công thức FCFF, tại trang 595, BKM viết FCFF phải trừ đi Increase in Net working capital, trong khi ở trên tôi đã show hình ảnh Damodaran viết là cộng change in Working capital. Công thức tính NWC và WC là như nhau.

Sách Corporate Finance tái bản lần thứ 12 của các tác giả A.Ross - Westerfield - Jaffe - Jordan. Trang 722, khi tính Net cash flows, họ trừ đi Working Capital (bôi vàng) và chính là hàng thứ (3) trong bảng tính (Increase in Working capital)

Tôi không tìm thấy đoạn nào nói Working Capital là "short-term assets and its short-term liabilities" trong cuốn này cả. 



CÁC TỔ CHỨC NGHỀ NGHIỆP

Trang web ACCA viết: "Vốn lưu động được định nghĩa là tài sản ngắn hạn trừ đi nợ ngắn hạn (It is defined as current assets less current liabilities...)"
 

Trang web của Viện CFA viết: "Working capital (also called net working capital) is defined simply as current assets minus current liabilities: (Net) Working capital = Current assets – Current liabilities

Trang Kaplan: Working capital is the capital available for conducting the day-to-day operations of an organisation; normally the excess of current assets over current liabilities.


PwC - Công ty kiểm toán thuộc nhóm big4: "Working capital is commonly defined as current assets less current liabilities"

Deloitte - Công ty kiểm toán thuộc nhóm big4 cũng viết "working capital is the difference between a company's current assets (e.g., cash, accounts receivable, inventory) and its current liabilities (e.g., accounts payable, short-term debt)."
CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÀNG ĐẦU

Tài liệu môn học của MIT - trường ĐH top 1 của Mỹ. Vốn lưu động = Tài sản ngắn hạn - Nợ ngắn hạn. 

Trường Kinh doanh Harvard (Harvard Business School)


Theo U.S. GAAP (Generally accepted accounting principles), working capital cũng bằng tài sản ngắn hạn trừ đi nợ ngắn hạn. Dưới đây là một vài dẫn chứng. 
Nguồn từ FASB (Financial Accounting Standard Board - Hội đồng chuẩn mực kế toán tài chính), là tổ chức ban hành chuẩn mực kế toán Hoa Kỳ, trong đó có US. GAAP là nguyên tắc, quy tắc, hướng dẫn kế toán. Tra cứu thuật ngữ Working capital cho kết quả "Working capital (also called net working capital) is represented by the excess of current assets over current liabilities and identifies the relatively liquid portion of total entity capital that constitutes a margin or buffer for meeting obligations within the ordinary operating cycle of the entity."

Trong tài liệu khác, FASB viết "Working capital, sometimes called net working capital, is represented by the excess of current assets over current liabilities...." 


Các nguồn khác cũng thể hiện tương tự:
Under Generally Accepted Accounting Principles ("GAAP"), the concept of "working capital" is simply the sum of current assets over current liabilities.  

Nếu tất cả các sách giáo trình tài chính chính thống nổi tiếng như BMA, BKM; từ sách Tài chính doanh nghiệp cho tới định giá đầu tư của Damodaran; từ trang web investopedia hàng triệu độc giả và giải thưởng của US cho tới trang web của CFI là tổ chức chuyên dạy tài chính, từ trang web của ACCA cho tới CFA, từ MIT cho tới Harvard đều dùng chung thuật ngữ và cách hiểu này, bao gồm cả Chuẩn mực kế toán Hoa Kỳ, mà mỗi bạn với cuốn sách của bạn dùng "phương ngữ" khác, thì bạn cứ việc khư khư ôm thuật ngữ và cách hiểu của bạn. Tôi chỉ cung cấp thông tin và không quan tâm  đến việc bạn muốn hiểu như thế nào. Nếu bạn cho rằng công thức tính Working Capital của tất cả các tổ chức trên đều sai, và bạn đúng, thì OK, bạn đúng !




























17/04/2024

"Doanh thu phát triển" trong phương pháp thặng dư đã bị hiểu nhầm như thế nào ?

 Hôm nay tôi mới có thời gian để nói thêm về bài viết hôm trước của mình: Hầu hết mọi người đều hiểu sai về Doanh thu phát triển trong phương pháp thặng dư. Vì việc hiểu sai rất đa dạng, phong phú, rất nhiều kiểu hiểu sai, tôi sẽ đăng một số tiêu biểu. Lưu ý rằng do việc giải thích đòi hỏi người nghe phải có kiến thức nền tảng vững vàng về TĐG và tài chính, nên tôi ko giải thích ở đây vì e rằng không phù hợp. Ngay cả trong các lớp tôi đang dạy, học viên đều là những người có thâm niên, kinh nghiệm, bằng cấp đầy mình nhưng để hiểu thực sự về nội dung lớn, các bạn vẫn cần fix lại những hiểu sai từ những nội dung nhỏ hơn, mà tôi phải fix  trong suốt hơn chục buổi học, mỗi buổi 3,5-4 tiếng đồng hồ. Vì vậy để tránh khiến vấn đề dài dòng (nhiều bạn có tâm lý thấy nhiều chữ là ko muốn đọc), khó tiếp cận với đa số, tôi mà chỉ nêu lên để mọi người tự đánh giá, thảo luận.

Hầu hết khi nói về doanh thu phát triển, rất nhiều người đánh đồng rằng tất cả những gì dự án nhận được hay bán/cho thuê được thì là doanh thu phát triển.

Tại Điều 6 Thông tư 36/2014/TT-BTNMT hướng dẫn ước tính doanh thu phát triển trong phương pháp thặng dư như sau:

2. Ước tính tổng doanh thu phát triển giả định của bất động sản

Tổng doanh thu phát triển giả định của bất động sản được ước tính trên cơ sở điều tra khảo sát, thu thập các thông tin về giá chuyển nhượng, giá cho thuê và các yếu tố khác hình thành doanh thu của các dự án có đặc điểm tương tự với dự án dự kiến đầu tư xây dựng tại khu vực định giá hoặc khu vực lân cận gần nhất có khả năng sinh lợi, điều kiện kết cấu hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội tương đương; có tính đến xu hướng và mức độ biến động của giá chuyển nhượng, giá cho thuê và các yếu tố khác hình thành doanh thu.

Tại khoản 8 Điều 1 Nghị định 12/2024/NĐ-CP ngày 5/2/2024 của Chính phủ cũng hướng dẫn ước tính doanh thu phát triển trong phương pháp thặng dư tương tự (thực ra cũng là Bộ TNMT chắp bút):

2. Ước tính tổng doanh thu phát triển của thửa đất, khu đất

a) Tổng doanh thu phát triển của thửa đất, khu đất được xác định trên cơ sở ước tính giá chuyển nhượng, giá cho thuê, mức biến động của giá chuyển nhượng, giá cho thuê trong thời gian thực hiện dự án và các yếu tố khác hình thành doanh thu bao gồm: thời gian bán hàng, thời điểm bắt đầu bán hàng, tỷ lệ bán hàng, tỷ lệ lấp đầy;

b) Việc ước tính giá chuyển nhượng, giá cho thuê để xác định tổng doanh thu phát triển của thửa đất, khu đất được thực hiện bằng phương pháp so sánh như đối với thửa đất, khu đất cần định giá đã được đầu tư xây dựng theo quy hoạch chi tiết xây dựng hoặc quy hoạch tổng mặt bằng đã được phê duyệt;

c) Việc ước tính mức biến động của giá chuyển nhượng, giá cho thuê căn cứ vào số liệu của cơ quan thống kê hoặc cơ quan quản lý thị trường bất động sản hoặc số liệu của giá đã chuyển nhượng, cho thuê trên thị trường;

d) Căn cứ tình hình thực tế tại địa phương, Sở Tài nguyên và Môi trường chủ trì, phối hợp với các sở, ngành có liên quan tham mưu, trình Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định cụ thể các yếu tố khác hình thành doanh thu quy định tại điểm a khoản này.

Trường hợp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chưa quy định cụ thể các yếu tố khác hình thành doanh thu thì đơn vị xác định giá đất đề xuất thời gian bán hàng, thời điểm bắt đầu bán hàng, tỷ lệ bán hàng, tỷ lệ lấp đầy trong báo cáo thuyết minh xây dựng phương án giá đất làm cơ sở để cơ quan tài nguyên và môi trường trình Hội đồng thẩm định giá đất cụ thể xem xét, thống nhất làm căn cứ hoàn thiện phương án giá đất trình Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền quyết định.

Điều này cũng nhất quán với Tiêu chuẩn TĐG số 11 (Ban hành kèm theo Thông tư số 145/2016/TT-BTC ngày 06 tháng 10 năm 2016 của Bộ trưởng Bộ Tài chính)  khi hướng dẫn về phương pháp thặng dư:

g) Xác định tổng doanh thu phát triển:

Tổng doanh thu phát triển của bất động sản là tổng doanh thu dự kiến có được của bất động sản thẩm định giá phù hợp với mục đích sử dụng tốt nhất và có hiệu quả nhất của thửa đất.

Tổng doanh thu phát triển giả định của bất động sản được ước tính trên cơ sở điều tra khảo sát, thu thập các thông tin về giá chuyển nhượng, giá cho thuê và các yếu tố khác hình thành doanh thu của các bất động sản có đặc điểm tương tự với dự án dự kiến đầu tư xây dựng tại khu vực có thửa đất thẩm định giá hoặc khu vực có khả năng sinh lợi, điều kiện kết cấu hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội tương đương thẩm định viên cần tính đến xu hướng và mức độ biến động của giá chuyển nhượng, giá cho thuê và các yếu tố khác hình thành doanh thu của dự án dự kiến đầu tư xây dựng trong tương lai.

 Khi đọc các văn bản hướng dẫn này, tôi thấy quan điểm chung của các Thẩm định viên đều tính toán theo cách hiểu tổng doanh thu phát triển là tổng doanh thu dự kiến có được, theo đúng bản chất ý nghĩa của Doanh thu (và tương tự với các Chi phí).

Vậy các bạn nói sao về cách tính được hướng dẫn tại Phụ lục số 4 - Thông tư 36 cũng như Phụ lục số III - Nghị định 12 ?

Tại Phụ lục số 4 - Thông tư 36 đưa ra Ví dụ minh họa xác định giá đất của tòa nhà văn phòng cho thuê. Ở đây doanh thu phát triển được tính bằng doanh thu hàng năm từ việc cho thuê trừ đi chi phí quản lý vận hành hàng năm, sau đó chiết khấu về hiện tại.


Tại Phụ lục III - Nghị định 12/2024/NĐ-CP ngày 5/2/2024 cũng hướng dẫn xác định doanh thu phát triển tương tự với Thông tư 36/2014/TT-BTNMT


Các bạn nghĩ thế nào về việc trừ đi chi phí quản lý, vận hành trong doanh thu rồi gọi đó là “doanh thu” ?

Sau khi nhóm tích cực thảo luận và hưởng ứng, tôi sẽ viết tiếp bài giải thích tại phần 2. Còn nếu ko ai quan tâm, thì xem như tôi nêu ra vấn đề để mọi người suy nghĩ, thảo luận.


 

 

 

15/03/2024

Bàn về phương pháp thặng dư (Một bài viết cũ từ tháng 6/2020 của tôi)

 (Đây là tổng hợp lại 02 bài viết của tôi đăng lên group chuyên môn từ ngày 21/6/2020. Lưu ý dẫn nguồn nghiêm túc khi đăng tải lại).

Hôm nay, tôi xin phép chia sẻ nội dung về bản chất phương pháp thặng dư, trên cơ sở khoa học để cả nhà thảo luận thêm. Xin các bác ít gạch đá xây nhà nhé.
Có một số ý kiến cho rằng Phương pháp thặng dư (residual method) là kết hợp của phương pháp thu nhập và phương pháp chi phí (hoặc là 1 nhánh của PP thu nhập, hoặc PP thu nhập là 1 nhánh của PP thặng dư, blah blah). Thực ra là không, phương pháp thặng dư có sử dụng cách tiếp cận (approach) thu nhập và chi phí, và sử dụng kĩ thuật chiết khấu dòng tiền (technique), nhưng là một phương pháp riêng. Trong khi phương pháp thu nhập dựa trên quan điểm về giá trị rằng giá trị của tài sản bằng tổng thu nhập/lợi ích tương lai mà tài sản đem lại cho chủ sở hữu, thì phương pháp thặng dư tiếp cận theo đúng nghĩa “phần còn lại” (residual), hiểu đơn giản hơn là “phần còn lại sau khi phân phối dòng tiền/lợi ích kỳ vọng cho các bên tham gia vào dự án”.
Trước khi đi vào phương pháp, chúng ta đồng ý với nhau rằng, cách tiếp cận thu nhập hàm ý tài sản có giá trị vì nó tạo ra dòng thu nhập/lợi ích tương lai cho chủ sở hữu. Điều đó có nghĩa, dòng tiền chung của sự án là tập hợp rất nhiều dòng tiền sinh ra từ các tài sản của dự án (mà chúng ta rất khó bóc tách). Ai góp tài sản gì, thì sẽ được nhận về phần sinh lợi của tài sản đó (phân phối lợi nhuận, cụ thể là phân phối dòng tiền).
Ở đây có 3 bên tham gia vào dự án:
- Chủ đầu tư, góp Vốn bằng tiền, kỳ vọng nhận về tỷ suất lợi nhuận đòi hỏi
- Chủ nợ, góp Tiền, kỳ vọng nhận về lãi suất cho vay
- Chủ Đất, góp Đất, kỳ vọng nhận về tiền bán đất cao nhất có thể (nên sẽ bán đất cho người sử dụng tốt nhất và hiệu quả nhất)
Qua đó, mỗi chủ thể cũng nhận về phần mình một phần lợi ích từ dự án tương ứng với mức độ tham gia vào dự án. Hay nói cách khác, các chủ thể này đều tham gia vào dự án, cùng tài trợ cho dự án, cùng gắn trách nhiệm vào dự án và cùng hưởng lợi ích từ dự án. Dòng tiền của dự án thu được sẽ phân phối cho 3 đối tượng: Nhà đầu tư ( dưới dạng lợi nhuận ) và chủ nợ ( dưới dạng lãi vay ) và Chủ Đất ( dưới dạng Chi phí mua đất của CĐT, ở đây gọi tắt là Giá đất )
Bây giờ, quay lại với công thức tổng quát của phương pháp thặng dư.
The equation for the residual valuation method in its simplest form is as follows:
Land = GDV – (Construction + Fees + Profit)
where
· Land = Purchase price of land/site acquisition
· GDV = Gross Development value
· Construction = Building and construction costs
· Fees = Fees and transaction costs
· Profit = Developers profit required
Để dễ diễn giải, tôi sẽ dùng công thức Việt hóa. Nếu như giá đất là đã biết trước (chủ đất đã nhận về lợi ích của họ thông qua giá NĐT phải trả để sở hữu đất) thì khi thẩm định dự án, chúng ta xem xét trên quan điểm Tổng đầu tư (Total investment point of view) với dòng tiền là dòng tiền của dự án (ko trừ đi chi phí lãi vay) và tỷ suất chiết khấu là WACC
LN (phần chủ đầu tư) + Lãi vay (phần chủ nợ) = TDT – TCP (không gồm lãi vay) (chiết khấu tại WACC)
=> LN (chủ đầu tư) + Lãi vay = TDT – TCP (ko gồm lãi vay, tiền mua/thuê đất) – Giá Đất
=> Giá Đất = TDT – TCP (ko gồm lãi vay, tiền đất) – Lãi vay – LN (chủ đầu tư)
Như vậy, theo phương pháp thặng dư, giá đất là phần còn lại của dự án mà chủ đất được hưởng sau khi phân phối lợi ích cho các bên liên quan như chủ nợ và chủ đầu tư.
Trở lại câu hỏi của nhiều người inbox tôi về việc khách hàng cho rằng họ “không có lợi nhuận hoặc lợi nhuận thấp”, thực tế là họ chỉ tìm cách giảm cái "lợi nhuận NĐT" xuống để giá đất cao hơn, để được cấp hạn mức tín dụng nhiều hơn.
Có những khách hàng tuyên bố họ làm “không có lợi nhuận, và không đồng ý áp Lợi nhuận trung bình vào dự án". Nếu bên sở hữu đất là bên thứ 3, thì hiển nhiên nếu dự án của họ không tạo ra lợi nhuận, họ sẽ không được giao/thuê đất do cơ chế giá là cơ chế phân bổ nguồn lực (đất đai là 1 nguồn lực), đất có tiềm năng phát triển phải được giao cho người có thể sử dụng tốt nhất và hiệu quả nhất, khai thác tối đa tiềm năng của đất (bảo kiếm phải trao tay hảo hán). Do đó nếu “không có lợi nhuận” hoặc không đạt “tỷ suất sinh lời đòi hỏi” thì CĐT sẽ không bao giờ mua đất để thực hiện dự án này.
Trong trường hợp sử dụng pp thặng dư xác định giá đất Nhà nước giao/cho thuê thì ông nào cũng muốn bơm phần lợi nhuận đòi hỏi lên, để phần còn lại cho "thằng chủ đất" giảm xuống theo công thức.

---

Có một thành viên (hiện quản lý bộ phận định giá trong 01 ngân hàng) trong group chuyên môn của tôi đặt câu hỏi khá thú vị liên quan tới phương pháp thặng dư:
Trong phương pháp thặng dư, khi dự án nằm trong tay 1 ông lớn (ví dụ VIN, SUN), họ có tiềm lực mạnh hơn hẳn so với chủ đầu tư khác, tiến độ xây dựng và bán hàng của họ nhanh gấp đôi. Vậy khi xác định giá trị thị trường, dòng tiền có bị ảnh hưởng bởi yếu tố này hay không?
Câu hỏi của bạn này sâu hơn ở chỗ: Nếu như dòng tiền bị ảnh hưởng, giá đất bị ảnh hưởng bởi tiến độ của 1 chủ đầu tư cụ thể, vậy thì phải chăng phương pháp thặng dư không “khách quan” vì chỉ đứng trên góc độ của Chủ đầu tư cụ thể ?
Anh cho rằng: “Nếu đứng trên góc độ thị trường, một lô đất được phê duyệt thì đâu quan tâm ai là chủ dự án”. Nếu có 5-7 NĐT có dòng tiền khác nhau thì giá đất sẽ khác nhau, vậy đâu mới là giá trị thị trường.
Đây là câu hỏi rất hay, lại một lần nữa đòi hỏi chúng ta quay về bản chất của phương pháp thặng dư (residual method). Như đã nói nhiều lần, tôi không rõ ai dịch Residual thành “thặng dư” cho sang miệng, nhưng dễ gây hiểu lầm, chứ phương pháp này là “phương pháp phần còn lại” thì đúng bản chất hơn. Nhiều người nghe thặng dư lại liên tưởng tới “giá trị thặng dư” trong kinh tế chính trị, có người thì liên tưởng tới “thặng dư tiêu dùng, thặng dư sản xuất”. Thặng dư trong thuật ngữ “thặng dư tiêu dùng” nó là Surplus, giá trị thặng dư là surplus value, gần với nghĩa của từ khác mà Việt Nam cũng có lúc dịch là Thặng dư (Excess – phần phụ trội), ko phải là Residual (phần còn lại). Trong phương pháp Residual Method, chẳng có bên nào nhận được phần phụ trội, phần thặng dư theo nghĩa Surplus hay Excess cả. Họ chỉ nhận được phần thị trường chấp nhận trả cho họ (đương nhiên ta đang bàn trong điều kiện lý tưởng của phương pháp). Như vậy, những gì đề cập tới "pp thặng dư" (residual method) dưới đây nên được hiểu là phương pháp phần còn lại để tránh hiểu sang nghĩa khác. (Trường hợp chủ đất hưởng surplus chỉ khi giá mảnh đất này đã đc ấn định mà pp thặng dư lại cho KQ cao hơn thì phần cao hơn này là surplus)
Để trả lời câu hỏi này, trước tiên chúng ta phải trả lời câu hỏi điều gì giúp công thức tính của phương pháp thặng dư phản ánh được “giá trị thị trường” của tài sản ?
Trước hết chúng ta nhất trí với nhau rằng, chúng ta đang ước tính giá trị thị trường (market value), không phải giá bán trên thị trường (market price).
Câu hỏi đầu tiên: “điều gì giúp công thức tính của phương pháp thặng dư phản ánh được “giá trị thị trường” của tài sản ?”
Để trả lời câu hỏi này, lại đi từ nguyên lý giá cả thị trường, nó lại bắt nguồn từ bản chất của lý thuyết cung cầu và cơ chế giá ở dạng đơn giản nhất (Thực tế để trả lời câu hỏi to, chúng ta phải trả lời rất nhiều câu hỏi nhỏ, đó là lí do tại sao không có nghiên cứu nào là vô dụng, việc nghiên cứu tìm hiểu cơ chế hoạt động của gen nó cũng quan trọng như việc nghiên cứu ra thuốc HIV vậy. Vì thế các bác đừng vội đánh giá dài dòng nhé.)
Chúng ta đều được học giá thị trường là tại điểm cân bằng giữa 2 cái đường chéo cung – cầu. Về mặt trực quan là vậy, nhưng tại sao nó lại cân bằng và điều gì khiến nó là giá thị trường ? Xin phép bỏ qua những cái khô khan, để tóm gọn lại:
Giá thị trường tại điểm cân bằng là mức giá mà ở đó, không có bên nào (buyers & sellers) có động cơ thay đổi hành vi của mình (*). Nếu 1 người bán nào đó thay đổi hành vi của mình: nếu bán giá thấp hơn, sẽ bị thiệt; nếu bán cao hơn, sẽ không ai mua vì người mua sẽ chuyển sang mua của người bán khác rẻ hơn trên thị trường). Ngược lại, nếu người mua nào đó thay đổi hành vi của mình: nếu mua thấp hơn, sẽ không người bán nào sẵn lòng bán; nếu mua cao hơn, sẽ thiệt. Cơ chế giá là cơ chế phân bổ nguồn lực tối ưu trong xã hội (với điều kiện thị trường ko bị méo mó).
Đối với các hàng hóa có giao dịch phổ biến trên thị trường như laptop, điện thoại, ô tô-xe máy (không chuyên dụng), chúng ta có đủ thông tin để sử dụng pp so sánh và đương nhiên lãi vay không ảnh hưởng gì tới ước tính giá thị trường theo phương pháp này. Lãi vay chỉ ảnh hưởng tới ước tính giá trong các phương pháp như phương pháp chi phí, phương pháp thu nhập, phương pháp thặng dư,….
Quay lại với phương pháp thặng dư; tại sao giá đất xác định chỉ bằng tính toán toán học mà lại ra được giá thị trường ?
Mức giá đất được xác định bằng phương pháp residual method phản ánh giá thị trường thông qua việc hài hòa lợi ích các bên (điều kiện lý tưởng), tại mức giá đất này không bên nào có động cơ thay đổi hành vi của mình. (Ở đây đang xét giả định có 3 bên tham gia vào dự án, vì ở VN khi định giá đất dự án bằng pp thặng dư, ông chủ đất thường là nhà nước. Ko phải vì vậy mà chúng ta loại trừ trường hợp chỉ có 1 bên tham gia dự án, trong đó chủ đất, chủ ĐT là 1 người và ko vay ngoài)
- Ông chủ nợ muốn giành phần hơn, nhưng các bên còn lại chỉ cho ông hưởng phần lãi vay theo lãi suất thị trường chấp nhận, hoặc người ta sẽ đi vay chỗ khác.
- Ông chủ đất muốn hạ thấp phần đc nhận của ông chủ đầu tư xuống để giá đất của ông cao lên, nhưng nếu ko đạt lợi nhuận trung bình thì sẽ ko có chủ đầu tư nào mua đất của ông để làm dự án.
- Ông chủ đầu tư muốn bơm lợi nhuận đòi hỏi của mình lên để giảm gía đất (phần ông chủ đất được nhận). Nhưng ông chủ đất sẽ ko đồng ý và chỉ đồng ý cho ông CĐT phần lợi nhuận trung bình ngành vì nếu thấp hơn sẽ không NĐT nào mua đất. Nếu NĐT đòi cao hơn, ông chủ đất sẽ giao cho những NĐT khác trên thị trường đòi hỏi mức LN thấp hơn.
Điểm cân bằng chính là khi các bên tham gia đạt được mức mà thị trường chấp nhận trả cho họ, mà ở đó họ không có cách nào giành phần hơn, và sẽ ko làm nếu không được đáp ứng phần kỳ vọng, do đó họ sẽ đồng ý trao đổi tài sản của mình (đất, vốn bằng tiền,...) để đổi lấy phần lợi ích từ dự án. Hay nói khác, họ không có động cơ thay đổi hành vi của mình. Đạt điểm cân bằng của cơ chế giá trong quan hệ cung cầu, tại đó, bên mua và bên bán không có động cơ thay đổi hành vi của mình.
Qua đó, giá đất theo pp này thể hiện đc giá trị thị trường.
Quay lại câu hỏi của bạn đọc, vậy "Trong pp thặng dư, khi dự án nằm trong tay 1 ông lớn (ví dụ VIN, SUN), họ có tiềm lực mạnh hơn hẳn so với chủ đầu tư khác, tiến độ xây dựng và bán hàng của họ nhanh gấp đôi. Vậy khi xác định giá trị thị trường, dòng tiền có bị ảnh hưởng bởi yếu tố này hay không?"
Nếu tiến độ xây dựng nhanh hơn thì thời gian hoàn vốn nhanh hơn. Dòng tiền chi (mà mình vẫn hay ước tính dựa vào chi phí), sẽ ngắn, giảm được nguy cơ đội vốn. Dòng tiền thu sẽ dồn nhiều vào những năm đầu hơn, do tốc độ bán hàng nhanh gấp đôi, (làm cho giá trị hiện tại của dòng tiền thu về sẽ cao hơn nếu cùng một discount rate do giá trị hiện tại của tiền tại tương lai càng xa thì càng thấp, vì công thức chúng ta đã chia cho (1+ tsck)^n.
Nhưng ko phải vì họ làm tốt hơn nên bị "phạt" bằng việc phải mua giá đất cao hơn (vì dòng tiền nhiều hơn). Họ làm tốt, chi phí cơ hội của vốn cao hơn sẽ làm tỷ suất chiết khấu cao, hiện giá của dòng tiền vẫn thấp, vì vậy giá đất ước tính không bị cao hơn các NĐT khác trên TT.
Các NĐT khác (vẫn đảm bảo phát huy được tiềm năng phát triển của đất) nhưng tiến độ chậm hơn, dòng tiền dàn trải ra các năm sau (yếu hơn) nhưng Re thấp nên hiện giá của các dòng tiền tương lai vẫn tương tự.
Kết quả giá đất vẫn sẽ như nhau cho dù NĐT là ai. Vấn đề ở chỗ cách chúng ta xác định discount rate cho phù hợp.
---------------
(*): John P. Burkett
The price at which the demand and supply curves intersect is the market-clearing price. At this price the quantities demanded and supplied are equal. In that sense, both buyers and suppliers are satisfied with the quantity traded, and neither is motivated to behave differently.
Since buyers and sellers have no reason to change their behavior, the market clearing price is an equilibrium price—that is, a price that can persist. When product’s price is at its market clearing level and the product’s demanders and suppliers buy and sell the quantities they prefer at that price, economists say the market for that good is in equilibrium. Economic equilibrium may be defined as a situation that can persist because no one involved in the situation has an incentive to change his or her behavior.

THỰC CHẤT CÁI GỌI LÀ “HỢP ĐỒNG HỢP TÁC ĐẦU TƯ/GÓP VỐN/VAY” TRONG GIAO DỊCH BẤT ĐỘNG SẢN HÌNH THÀNH TRONG TƯƠNG LAI

  Bài viết của HiepHoPe từ group Đam mê Bất động sản. Mình share lại cho mọi người đọc và cùng cho ý kiến. -------- Phần 2 : Cái bẫy cũ của ...