NỘI DUNG VỤ ÁN:
Phòng giao dịch D là đơn vị trực thuộc Chi
nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn thành phố C, được thành lập
theo Quyết định số 1667/QĐ/NHNN-TCCB ngày 02-03-2007 của Tổng Giám đốc Ngân
hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, có nhiệm vụ huy động tiền
gửi tiết kiệm của dân cư.
Thời gian từ tháng 5-2008 đến tháng 4-2010,
Phòng giao dịch D là một quầy giao dịch làm việc chung văn phòng với phòng kế
toán Ngân quỹ của Ngân hàng nông nghiệp C. Phòng giao dịch D có 02 nhân viên
là:
- Phan Thị Q là kế toán có nhiệm vụ giao dịch
với khách hàng, lập các chứng từ thu, chi tiền, mở sổ theo dõi nhật ký quỹ tiền
mặt, hạch toán các khoản thu chi vào chương trình giao dịch trên máy vi tính,
in phát hành sổ tiết kiệm và lập thẻ lưu tiết kiệm.
- Võ Thị Kim T là thủ quỹ có nhiệm vụ quản lý
sổ tiết kiệm trắng chưa phát hành cho khách hàng; quản lý việc thu, chi tiền
mặt.
Còn Võ Thị Ánh N là giao dịch viên của phòng
Kế toán - Ngân quỹ Ngân hàng nông nghiệp C, có nhiệm vụ quản lý các khoản chi
trả chuyển tiền đến cho khách hàng vãng lai, chuyển tiền đi và đến, các nghiệp
vụ huy động vốn, hạch toán các khoản thu nợ, thu lãi bằng tiền mặt.
Ngày 12-4-2010, Giám đốc chi nhánh Ngân hàng
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thành phố C, phát hiện sai phạm của giao
dịch viên đang làm việc tại chi nhánh nên báo cáo lên Chi nhánh Ngân hàng Nhà
nước tỉnh Bình Định. Ngày 07-6-2010, Giám đốc Chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp
và phát triển nông thôn tỉnh Bình Định có Công văn số 486/NHNNBĐ-HCNS đề nghị
Cơ quan điều tra làm rõ việc chi tiền tiết kiệm tại Phòng giao dịch D cho 02 sổ
tiết kiệm NA 222040 tên Đặng Thị Bích D và sổ tiết kiệm NA 1297720 tên Ngô Thanh
V, làm thiệt hại cho Ngân hàng với tổng số tiền 774.403.300 đồng. Quá trình
điều tra xác định:
- Đối với Phan Thị Q và Võ Thị Kim T đã trực
tiếp chi tiền từ quỹ của phòng giao dịch cho sổ tiết kiệm NA 222040 mang tên
Đặng Thị Bích D là 200.100.000 đồng và sổ tiết kiệm NA 1297720 mang tên Ngô
Thanh V là 102.870.600 đồng; tổng cộng là 302.970.600 đồng (200.100.000 +
102.870.600 = 302.970.600 đồng) mà không kiểm tra chứng minh thư nhân dân của
khách hàng để đối chiếu, dẫn đến thiệt hại cho Ngân hàng số tiền trên.
- Đối với Võ Thị Ánh N đã trực tiếp làm các
thủ tục và chi tiền từ quỹ của chi nhánh Ngân hàng do Võ Thị Ánh N quản lý cho
sổ tiết kiệm NA 1297720 mang tên Ngô Thanh V, tổng số tiền 471.432.700 đồng,
gồm các lần sau:
Ngày 31-7-2009, Võ Thị Ánh N chi 23.124.400
đồng bao gồm 20.000.000 đồng tiền gốc và 3.124.400 đồng tiền lãi.
Ngày 03-11-2009, Võ Thị Ánh N chi 448.308.300
đồng bao gồm 375.000.000 đồng tiền gốc và 73.308.300 đồng tiền lãi.
Riêng đối với lần chi ngày 03-11-2009, Cơ quan
điều tra đã xác định Võ Thị Ánh N đã chuyển 251.000.000 đồng vào tài khoản ATM
mang tên Võ Thị T (thẻ này do Võ Thị Ánh N quản lý, sử dụng và giao dịch nhiều
lần). Sau đó, Võ Thị Ánh N đã rút 251.000.000 đồng từ tài khoản ATM của bà Võ
Thị T nhiều lần để chiếm đoạt.
Số tiền còn lại từ việc chi trả cho sổ tiết
kiệm bậc thang NA 1297720 mang tên Ngô Thanh V nhưng Võ Thị Ánh N không chứng
minh được người nhận tiền nên đã gây thiệt hại cho Ngân hàng 220.432.700 đồng.
Do trong quá trình điều tra, bị cáo Võ Thị Ánh N đã khắc phục xong số tiền này
nên Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định không truy tố bị cáo về hành vi này.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 106/2013/HSST
ngày 14-8-2013, Tòa án nhân dân thành phố C, tỉnh Bình Định đã áp dụng điểm c
khoản 2 Điều 278; các điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 47 Bộ luật Hình
sự xử phạt Võ Thị Ánh N 03 năm tù về tội “Tham ô tài sản”.
Ngày 27-8-2013, Võ Thị Ánh N có đơn kháng cáo
xin hưởng án treo.
Tại Bản án hình sự phúc thẩm số 30/2014/HSPT
ngày 24-02-2014, Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều
248; điểm đ khoản 2 Điều 249 Bộ luật Tố tụng hình sự chấp nhận kháng cáo xin
hưởng án treo của bị cáo Võ Thị Ánh N, áp dụng điểm c khoản 2 Điều 278, các
điểm b, p khoản 1, 2 Điều 46, Điều 47 và Điều 60 Bộ luật Hình sự xử phạt Võ Thị
Ánh N 03 năm tù về tội “Tham ô tài sản” nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử
thách là 05 năm.
Tại Kháng nghị giám đốc thẩm số 02/2015/KN-HS
ngày 09-02-2015, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng giám đốc
thẩm Tòa hình sự Tòa án nhân dân tối cao hủy Bản án hình sự phúc thẩm số
30/2014/HSPT ngày 24-02-2014 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định và Bản án hình
sự sơ thẩm số 106/2013/HSST ngày 14-8-2013 của Tòa án nhân dân thành phố C,
tỉnh Bình Định đối với Võ Thị Ánh N để điều tra lại theo đúng quy định
của pháp luật.
Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện
kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng giám đốc thẩm chấp nhận Kháng nghị
của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Võ Thị Ánh N không được
lãnh đạo Ngân hàng nông nghiệp C giao nhiệm vụ chi tiền tiết kiệm nhưng lợi
dụng sự sơ hở trong quá
trình quản lý của Ngân hàng, Võ Thị Ánh N đã nhiều lần trực tiếp làm các thủ
tục và chi tiền tiết kiệm từ quỹ của chi nhánh ngân hàng do Võ Thị Ánh N quản
lý cho sổ tiết kiệm NA 1297720 mang tên Ngô Thanh V với tổng số tiền là
471.432.700 đồng. Trong quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã xác định không
có khách hàng nào tên Ngô Thanh V và bản thân Võ Thị Ánh N cũng không chứng minh
được ai là người đến nhận số tiền này.
[2] Sau khi làm thủ tục chi tiền cho khách
hàng Ngô Thanh V, Võ Thị Ánh N đã chuyển 251.000.000 đồng là tiền trong quỹ của
ngân hàng do Võ Thị Ánh N quản lý vào tài khoản ATM mang tên Võ Thị T do Võ Thị
Ánh N là người trực tiếp mở thẻ, quản lý và sử dụng; sau đó nhiều lần rút số
tiền này để chiếm đoạt của Ngân hàng nông nghiệp C. Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa
án cấp phúc thẩm đã kết án Võ Thị Ánh N về tội “Tham ô tài sản” đối với số tiền
251.000.000 đồng là có căn cứ và đúng pháp luật. Tuy nhiên, số tiền mà Võ Thị
Ánh N chiếm đoạt của Ngân hàng là 251.000.000 đồng nên hành vi phạm tội của Võ
Thị Ánh N thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản 3 Điều 278 Bộ luật Hình sự
“Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm
triệu đồng” có khung hình phạt tù từ mười lăm năm đến hai mươi năm. Tòa án
cấp sơ thẩm chỉ áp dụng khoản 2 Điều 278 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Võ Thị
Ánh N 03 năm tù là quá
nhẹ, không đúng với quy định của pháp luật. Khi xét xử phúc thẩm, Tòa án cấp
phúc thẩm không phát hiện ra sai lầm của Tòa án cấp sơ thẩm, vẫn giữ nguyên mức
hình phạt và cho bị cáo hưởng án treo là sai lầm nghiêm trọng, không đánh giá
đúng tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội do bị cáo gây ra.
[3] Đối với số tiền còn lại 220.432.700 đồng
(471.432.700 - 251.000.000 = 220.432.700 đồng) mà Võ Thị Ánh N đã chi trả cho
sổ tiết kiệm bậc thang NA 1297720 mang tên Ngô Thanh V, Võ Thị Ánh N đã khắc
phục xong hậu quả, Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn thành phố C đã
thu hồi được toàn bộ số tiền bị mất. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định cho
rằng bị cáo đã khắc phục hậu quả nên không truy tố về hành vi này là bỏ lọt tội
phạm.
Bởi các lẽ trên, căn cứ vào khoản 2 Điều 279; khoản 3 Điều 285, Điều 287
Bộ luật Tố tụng hình sự,
QUYẾT ĐỊNH:
1. Hủy Bản án hình sự phúc thẩm số
30/2014/HSPT ngày 24-02-2014 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định và Bản án hình
sự sơ thẩm số 106/2013/HSST ngày 14-8-2013 của Tòa án nhân dân thành phố C,
tỉnh Bình Định đối với Võ Thị Ánh N để điều tra lại theo đúng quy định của pháp
luật.
2. Chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát nhân
dân tối cao giải quyết theo thẩm quyền.
Các quyết định khác của bản án hình sự phúc
thẩm và sơ thẩm nêu trên không bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm tiếp
tục có hiệu lực pháp luật.
NỘI DUNG
ÁN LỆ
“[3] Đối với số tiền còn lại 220.432.700 đồng (471.432.700 - 251.000.000
= 220.432.700 đồng) mà Võ Thị Ánh N đã chi trả cho sổ tiết kiệm bậc thang NA
1297720 mang tên Ngô Thanh V, Võ Thị Ánh N đã khắc phục xong hậu quả, Ngân hàng
nông nghiệp và phát triển nông thôn thành phố C đã thu hồi được toàn bộ số tiền
bị mất. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định cho rằng bị cáo đã khắc phục hậu
quả nên không truy tố về hành vi này là bỏ lọt tội phạm.”
Nguồn án lệ:
Quyết định giám đốc thẩm số 09/2015/HS-GĐT
ngày 23-4-2015 của Tòa Hình sự Tòa án nhân dân tối cao về vụ án
“Tham ô tài sản” đối với bị cáo: Võ Thị Ánh N, sinh năm 1981; trú tại số 17,
đường A, phường B, thành phố C, tỉnh Bình Định.
Ngoài ra, trong vụ án còn có Phan Thị Q bị kết
án về tội “Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng”; Võ Thị Kim T bị kết án
về tội “Thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước”.
Vị trí nội dung án lệ:
Đoạn 3 phần “Nhận định của Tòa án”.
Khái quát nội dung án lệ:
- Tình
huống án lệ:
Bị cáo lợi dụng sơ hở trong quản lý của ngân
hàng, nhiều lần trực tiếp làm thủ tục rút và chi tiền tiết kiệm từ quỹ của chi
nhánh ngân hàng do bị cáo quản lý nhưng thực tế không chi trả cho bất kỳ ai mà
bị cáo đã sử dụng số tiền này.
Quá trình điều tra bị cáo đã khắc phục được
một phần số tiền mà bị cáo đã chiếm đoạt.
- Giải pháp
pháp lý:
Trường hợp này, bị cáo phải chịu trách nhiệm
hình sự về tội “Tham ô tài sản”.
Giá trị tài sản mà bị cáo chiếm đoạt phải xác
định là toàn bộ số tiền mà bị cáo đã làm thủ tục rút và chi tiền tiết kiệm
khống từ quỹ của chi nhánh ngân hàng (bao gồm cả số tiền bị cáo đã khắc phục
trong quá trình điều tra).
Quy định của pháp luật liên quan đến án lệ:
Điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 47;
Điều 60; điểm c khoản 2 Điều 278 Bộ luật Hình sự năm 1999 (tương ứng với điểm
b, s Điều 51; Điều 54; Điều 65, điểm c khoản 2 Điều 353 Bộ luật Hình sự năm
2015);
Từ khóa của án lệ:
“Tội tham ô tài sản”; “Giá trị tài sản chiếm
đoạt”; “Khắc phục một phần hậu quả”, “Các tội xâm phạm sở hữu”.
(Theo Án lệ số 19/2018/AL được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 17 tháng 10 năm 2018 và được công bố theo Quyết định số 269/QĐ-CA ngày 06 tháng 11 năm 2018 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét