Lời nói dối của đất: Bằng cách nào và tại sao đất bị định giá thấp
bởi Michael Hudson
Dịch bởi: Hocthamdinhgia.blogspot.com
Giáo sư Hudson, tác giả
và chuyên gia về lịch sử kinh tế, kế toán thu nhập quốc dân và phân tích dòng
tiền của các nhà tài chính hàng đầu Phố Wall, là Chủ tịch Viện Nghiên cứu Xu
hướng Kinh tế Dài hạn, New York. Bài luận này đã hình thành cơ sở cho một hội
thảo chuyên đề tại Viện Bất động sản của Đại học New York vào ngày 25 tháng 10
năm 2001, do Quỹ Robert Schalkenbach đồng tổ chức và dựa trên nghiên cứu trước
đó đã được thực hiện cho Quỹ.
Biến lợi nhuận từ giá trị đất đai thành lãi vốn
Bạn có thể tưởng rằng loại tài
sản lớn nhất ở Mỹ là nhà máy công nghiệp và máy móc. Trên thực
tế, bảng cân đối kế toán hàng năm của Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ
cho thấy bất động sản là tài sản lớn nhất của nền kinh tế, hai phần ba
tài sản của Hoa Kỳ và hơn 60% là đất đai, tùy thuộc vào phương pháp định giá.
Hầu hết các khoản lãi vốn
là lợi nhuận từ giá trị đất đai. Điều mà những tay chơi lớn mong muốnkhông chỉ là lợi nhuận từ việc cho thuê - vốn bị đánh thuế như thu nhập thông thường, mà là lãi
vốn - thu nhập bị đánh thuế ở mức thấp hơn. Để được hưởng lợi nhiều nhất có thể từ bong bóng
bất động sản ngày nay với giá trị đất đai tăng nhanh, họ cầm cố (pledge) thu
nhập từ tiền thuê bất động sản để trả lãi của khoản nợ vay cho càng nhiều tài
sản càng tốt sao cho số tiền tự có mà họ phải bỏ ra để mua càng ít càng
tốt. Sau khi trả hết cho người cho vay cầm cố, họ bán tài sản và mang về "tiền lãi vốn (capital gain)".
Sự
tăng giá này thực chất là một “lợi nhuận từ đất (land gain)”, nghĩa là không
phải từ việc cung cấp vốn khởi nghiệp cho các doanh nghiệp mới, mà là từ việc
tạo ra một tài sản đang tăng giá đã có sẵn, đó là đất đai. Giá trị của nó tăng lên
do các khu vực lân cận được nâng cấp, tiền thế chấp dồi dào và việc tái quy
hoạch (rezoning) thuận lợi từ đất nông nghiệp ở những vùng ngoại ô thành phố cho
đến quy hoạch vùng trung tâm để tạo ra các khu dân cư có thu nhập cao. Khoản
lãi vốn tiềm năng có thể thu được là khổng lồ. Đó là lý do tại sao các nhà phát
triển BĐS (hay chủ đầu tư BĐS – developer) sẵn sàng trả cho các bên cho vay thế chấp phần
lớn thu nhập từ tiền thuê, thường là tất cả.
Tất nhiên, việc đầu tư
phần lớn thu nhập thặng dư và của cải vào đất đai đã diễn ra từ thời cổ đại, và
việc cầm cố đất đai để trả nợ ("thế chấp nhà cửa") thường dẫn đến
việc chủ nợ tịch thu hoặc buộc phải bán trong điều kiện túng quẫn. Ngày
nay, vay mượn để mua đất là một cách để trở nên giàu có - trước khi bong bóng
đất nổ tung. Khi các nền kinh tế trở nên giàu có hơn, phần lớn thặng
dư của họ vẫn được dùng để mua bất động sản, cả vì ưu thế và vì dòng thu nhập
cho thuê của nó tăng lên khi xã hội thịnh vượng hơn. Đó là lý do tại sao
những người cho vay nhận thấy bất động sản là tài sản thế chấp được lựa chọn.
Hầu
hết những người mới lọt vào danh sách những người giàu nhất của Forbes hoặc Fortune
đều bao gồm các tỷ phú bất động sản, hoặc các cá nhân đến từ các ngành
công nghiệp nhiên liệu và khoáng sản hoặc các công ty độc quyền tự nhiên. Những người không được
thừa hưởng vận may của gia đình đã có được sự giàu có của họ bằng cách vay tiền
để mua những tài sản có sự tăng vọt về giá trị. Đất đai có thể không phải
là một yếu tố sản xuất, nhưng nó cho phép người sở hữu khẳng định quyền sở hữu
và quyền lợi, tức là thu nhập của người cho thuê dưới các hình thức cho thuê và
lợi suất.
Trong hơn 40 năm qua,
tôi tập trung nghiên cứu các yếu tố làm tăng hoặc giảm giá bất động sản chung của
quốc gia - thu nhập tăng và mức tiết kiệm, lãi suất thay đổi và nguồn cung cấp
tín dụng thế chấp của khu vực tài chính, cũng như những thay đổi trong luật
thuế và các quy tắc định hình thị trường liên quan. Công việc này là trở ngại đối với
các ngân hàng Phố Wall và các nhà đầu tư tổ chức do không có
dữ liệu đáng tin cậy về giá trị của đất đai và các công trình trên đất. Các số liệu thống
kê chính thức về bất động sản trên toàn quốc cho thấy rằng một sự bất cân xứng được
thúc đẩy bởi động cơ chính trị đang diễn ra trong nền kinh tế, mang lại lợi ích
cho bất động sản, mà tôi sẽ cố gắng chỉ ra ngay bây giờ.
Giấu
bữa trưa miễn phí
BAUDELAIRE (một nhà thơ lớn ở Pháp) từng nói rằng ma
quỷ chiến thắng tại những nơi mà chúng thuyết phục được con người tin rằng rằng
chúng không tồn tại. Các ngành Tài chính, Bảo hiểm và Bất động sản
(FIRE) dường như đã áp dụng một triết lý tử tế rằng
những gì không được định lượng và báo cáo sẽ vô hình (invisible) trong mắt người
thu thuế, vì vậy họ đã để lại phần lớn cầm cố cho tín dụng thế chấp và được trả
dưới dạng lãi suất. Điều này dường như đã hoạt động. Đối với các
nhà lý thuyết hàn lâm cũng vậy, khi tập trung vào thế giới giả thuyết cụ thể
của riêng họ, độ lớn của tiền thuê đất (land rent – địa tô) và lãi từ tăng giá
đất (land-price gains) đã trở nên vô hình. Nhưng với các nhà đầu tư thì
không. Họ chọn một bất động sản có giá trị địa điểm tăng nhanh hơn lãi
suất phải trả và họ muốn tránh xa các khoản thu nhập từ vốn nhân tạo (man-made
capital) - chẳng hạn như sự cải tiến (improvements). Đó chỉ là những khoản thu nhập kiếm
được, không phải là "bữa trưa miễn phí" mà họ nhận được từ việc tăng
giá trị đất đai.
Các nhà kinh tế học của
Trường phái Chicago khẳng định rằng không tồn tại bữa trưa miễn phí. Nhưng
khi bắt đầu nhìn vào bề mặt của số liệu thống kê thu nhập quốc dân và bảng cân
đối tài sản và nợ phải trả quốc gia, người ta có thể thấy rằng các nền kinh tế
hiện đại đều hướng tới việc làm sao để có được bữa trưa miễn phí. Tuy nhiên,
để thúc đẩy nhanh chóng đạt được bữa trưa miễn phí này, sẽ hữu ích nếu phần còn lại của thế giới không thấy rằng không ai có thể nhận được
điều gì đó mà không phải bỏ ra thứ gì - cái mà các nhà kinh tế học cổ điển gọi là thu
nhập trời cho (unearned income), đặc trưng nhất là dưới hình
thức địa tô (land rent). Bạn bắt đầu bằng cách sử dụng một phương pháp
định giá thấp hơn thu nhập thực tế mà đất đai tạo ra. Đây là cách nó được
thực hiện.
Hai phương pháp
định giá
Bất động sản được định giá theo hai cách. Cả hai đều bắt đầu bằng cách ước tính giá trị thị trường
của BĐS.
- Cách tiếp cận phần đất còn lại
(the land-residual approach) bằng
cách trừ giá trị của công trình xây dựng ra khỏi giá trị tổng thể,
phần còn lại nhận được chính là giá trị của đất. Giá trị của công
trình có thể được ước tính dựa trên chi phí thay thế của
chúng (thường tạo ra ước tính rất cao, để lại phần giá trị còn lại của đất nhỏ hơn)
hoặc giá trị khấu hao của chúng (đưa ra ước tính giá trị
công trình thấp phi thực tế, vì bảo trì và sửa chữa làm giảm sự xuống cấp do hao mòn của hầu hết các tòa
nhà). Sử dụng phương pháp giá trị khấu
hao sẽ cho giá trị còn lại của đất cao hơn. Cục Dự trữ Liên bang
gần đây đã thử nghiệm một phương pháp trung gian kết hợp để định giá các
tòa nhà trên cơ sở "chi phí lịch sử" của chúng.
- Cách tiếp cận giá trị công trình
còn lại (the building-residual approach) bắt đầu
bằng cách định giá đất và coi phần còn lại sau khi lấy giá trị BĐS trừ đi giá đất đại diện cho giá trị của công
trình. Bước đầu tiên của phương pháp này là xây dựng bản đồ giá trị
đất đai cho quận hoặc thành phố. Điều này hiển thị các đường bao khá
mịn cho các giá trị đất. Lớp phủ sẽ hiển thị các biến thể phân
vùng. Hầu hết các biến thể về giá bất động sản xung quanh bản đồ
chuẩn hóa này sẽ dành cho các cấu trúc, cùng với một thành phần "lỗi
và thiếu" khá lớn. Cách tiếp cận này hiếm khi được sử dụng,
và hầu hết các giá trị đất được định giá thay đổi đáng kể giữa các thửa
đất này sang thửa đất khác. Vấn đề đặc biệt rõ ràng trong trường hợp
các bãi đậu xe hoặc "người đóng thuế" một tầng, tức là các tòa
nhà rẻ tiền trong các khu phố được xây dựng nhiều. Mục đích của họ
chỉ đơn giản là được cho thuê với số tiền đủ để chi trả hóa đơn thuế bất
động sản, chứ không phải để tối đa hóa giá trị kinh tế hiện tại của vị trí.
Lưu ý rằng phương pháp
định giá trị đất còn lại của Fed không thừa nhận khả năng bản thân đất có thể
tăng giá. Giá trị vị trí xuất hiện dưới dạng phái sinh thụ động, không
phải là động lực. Tuy nhiên, các khu đất trống hoặc thấp tầng có xu hướng
định giá cao hơn (trong nhiều trường hợp, thậm chí cao hơn rất nhiều) các bất động sản
được cải thiện xung quanh chúng. Do đó, sự tăng giá này không thể là do
chi phí xây dựng tăng. Nếu mọi bất động sản trong nước đều được xây dựng
vào năm ngoái, vấn đề sẽ khá đơn giản. Giá mua đất và chi phí xây dựng
sẽ được ghi nhận và cộng vào giá trị bất động sản. Nhưng nhiều công trình đã được xây dựng từ rất lâu trước đó, chẳng hạn từ thế kỷ 19. Làm sao chúng ta quyết định giá trị của công trình đã thay đổi bao nhiêu so với
giá trị tổng thể của bất động sản?
Cục
Dự trữ Liên bang nhân chi phí ban đầu của tòa nhà với sự gia tăng của chỉ số
giá xây dựng kể từ khi hoàn thành. Hàm ý là khi bất động sản được bán với giá cao
hơn (điều này thường xảy ra), đó là do bản thân tòa nhà đã tăng giá trị, chứ
không phải do đất đai tăng giá. Tuy nhiên, nếu BĐS phải được bán với
giá thấp hơn, họ lại đổ nguyên nhân là do giá đất giảm.
Nếu đồng ý rằng bất kỳ
lời giải thích nào về mối quan hệ đất đai/công trình xây dựng phải đối xứng qua
các thời kỳ bùng nổ và phá sản, thì cùng một phương pháp định giá sẽ có thể
giải thích sự suy giảm cũng như sự gia tăng giá trị tài sản. Phương pháp
luận phải thống nhất và nhất quán nhất có
thể. Theo đó, tôi muốn nói rằng đất đai tương tự nên được định giá ở một
mức giá đồng nhất, và các tòa nhà có giá trị tương đương nên được định giá
tương ứng.
Nếu hai tiêu chí này
được chấp nhận, thì tôi tin rằng các nhà kinh tế sẽ coi các công trình là phần
còn lại chứ không phải đất. Tuy nhiên, điều ngược lại thường được thực
hiện.
Kỳ 2: Làm thế nào đất có giá trị âm ?
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét