03/10/2023

Tranh cãi xung quanh ước tính Beta nợ vay và công thức tính Beta không vay nợ

Tranh cãi xung quanh ước tính Beta nợ vay (Levered beta) và công thức tính Beta không vay nợ (Unlevered beta)
Người dịch: Admin Group Tôi học Thẩm định giá
(Vui lòng dẫn nguồn nếu sử dụng bản dịch của tôi)
Bài viết rất hay và sâu sắc của Clifford S. Ang, CFA Charterholder. Ông là Phó chủ tịch tại Compass Lexecon - một công ty tư vấn chuyên về ứng dụng kinh tế vào các vấn đề pháp lý. Ông chuyên về lĩnh vực thẩm định giá, tài chính doanh nghiệp, kế toán và đánh giá mức độ tổn thất. Ai nói sếp thì không mạnh về nghiệp vụ và ko chú ý các chi tiết nhỏ. Dường như các TĐV bên nước ngoài đều có nền tảng khoa học và học thuật rất mạnh mẽ, hiểu rất sâu sắc cái mà họ đang làm. 
Ngày trước đi học, tôi cũng thắc mắc tại sao lại có thể giả định Beta nợ vay (Debt beta) = 0, dường như có gì đó sai sai. Nếu Beta nợ vay = 0 thì Lãi suất cho vay sẽ bằng lãi suất phi rủi ro, điều này ko đúng trong thực tiễn. Thực tế hiện nay, chúng ta đều giả định Beta nợ vay = 0, thể hiện rõ nhất qua công thức tính Beta vay nợ (levered beta) và Beta không vay nợ (unlevered beta) trong Tiêu chuẩn 12 và các giáo trình Định giá doanh nghiệp.
Tạm dịch:
Vào ngày 8 tháng 7 năm 2016 Khi tái thẩm định Ý kiến ​​của Công ty Cổ phần Toàn cầu DFC (DFC Opinion), Tòa án Tiểu Bang Delaware cho rằng nên ước tính hệ số beta các khoản nợ của từng công ty riêng lẻ và trích dẫn cuốn Chi phí vốn của hai tác giả Pratt & Grabowski để lý giải cho việc tính betas nợ vay dựa trên xếp hạng tín dụng của công ty. [1] Ngoài ra, Tòa án cũng thông qua Công thức Hamada thay vì Công thức Fernandez để tính hệ số beta không vay nợ (Vietnam chúng ta hay gọi là Beta U) vì họ tin rằng Công thức Hamada “được chấp nhận rộng rãi, dễ hiểu và không bị tranh chấp về việc liệu nó có được tính toán đúng hay không.” [2] Như tôi giải thích dưới đây, việc sử dụng hai cách tiếp cận này có thể không phải là phương pháp tốt nhất cho những người hành nghề thẩm định giá.
Ước tính Beta nợ vay

Các vấn đề thực tế khiến việc ước tính nợ trực tiếp từ trái phiếu của công ty trở nên vô cùng khó khăn, nếu không muốn nói là không thể. Cụ thể, các công ty có thể phát hành nhiều trái phiếu và sự không đồng nhất của các trái phiếu đó có thể khiến việc xác định trái phiếu đại diện trở nên khó khăn. Ngoài ra, ngay cả khi một trái phiếu như vậy có thể được xác định, thị trường trái phiếu rất kém thanh khoản và việc tìm kiếm một khoảng giá đáng tin cậy cho một trái phiếu như vậy có thể là một thách thức. Thay vào đó, Tòa án tại DFC Opinion đề nghị sử dụng các beta nợ vay theo xếp hạng tín dụng được báo cáo trong Chi phí vốn của Pratt và Grabowski.

Trong cuốn sách đócác tác giả ước tính các beta nợ bằng cách sử dụng "đường SML (Đường thị trường chứng khoán) với chi phí nợ vay đã điều chỉnh thuế" của Benninga-Sarig như sau:

trong đó RD là chi phí nợ vay, RF là lãi suất phi rủi ro βD là beta nợ vay, RM là tỷ suất lợi nhuận của thị trường và t là thuế suất doanh nghiệp. Công thức Benninga-Sarig được phát triển để đi đến cách tiếp cận giống như CAPM khi có các mức thuế khác nhau đối với nợ và vốn chủ sở hữu và phương pháp này, ngoài việc sửa đổi SML cho nợ vay, còn yêu cầu phương trình SML vốn chủ sở hữu được sửa đổi (tức là không còn sử dụng CAPM nữa) và điều chỉnh công thức beta không vay nợ (tức là bạn không thể sử dụng các công thức beta không vay nợ tiêu chuẩn, như được thảo luận dưới đây). [3] Do đó, các khoản nợ được báo cáo trong Chi phí vốn được tính theo cách không nhất quán với CAPM được sử dụng bởi những người hành nghề.

Hơn nữa, trong một ấn bản sau này của cuốn sách mô hình tài chính dựa trên Chi phí vốn, ngay cả tác giả cũng đặt câu hỏi về tính hữu ích của công thức mà ông đã phát triển. Cụ thể, Benninga viết:

"Mặc dù CAPM được điều chỉnh thuế phù hợp hơn với nền kinh tế có thuế, chúng tôi thú nhận rằng - với những điều không chắc chắn xung quanh chi phí tính toán vốn - sự khác biệt giữa CAPM cổ điển và CAPM được điều chỉnh thuế có thể không đáng để gặp rắc rối." [4]

Do đó, chúng ta phải xác định xem có bất kỳ lợi ích nào khi sử dụng công thức Benninga-Sarig hay không. Như một thử nghiệm đơn giản, tôi so sánh các beta nợ vay được báo cáo trong Sổ tay định giá Duff &; Phelps 2016, sử dụng cùng một công thức Benninga-Sarig như Chi phí vốn, nhưng sử dụng dữ liệu cập nhật cho bốn quý của năm 2015 với các beta nợ vay được tính bằng CAPM. [5] Để tăng tính nghiêm ngặt, tôi sử dụng hai proxy thị trường cho mô hình thị trường của mình: Chỉ số S&P 500 và chỉ số SPDR S&P 500 ETF. Tôi lấy dữ liệu giá cho hai proxy thị trường từ Yahoo Finance. Theo phương pháp luận trong Sổ tay định giá Duff &; Phelps, tôi sử dụng Barclays US Corp và HY Bond Indexes từ Morningstar Direct cho dữ liệu chỉ số trái phiếu theo xếp hạng tín dụng và các beta nợ vay được ước tính bằng cách sử dụng lợi nhuận hàng tháng trong 05 năm. Kết quả xét nghiệm của tôi được báo cáo trong Bảng 1.

Như kết quả tại Bảng 1 cho thấy, hầu như không có sự khác biệt trong các beta được tính toán bằng cách sử dụng công thức Benninga-Sarig và CAPM. Do đó, dường như không có lợi ích thực tế nào khi sử dụng các beta nợ vay theo Benninga-Sarig thay vì CAPM để có thể bù đắp cần thiết do việc đi chệch khỏi CAPM và các công thức beta không vay nợ tiêu chuẩn. Hơn nữa, việc sử dụng CAPM mang lại lợi ích bổ sung là cho phép người hành nghề sử dụng một phương pháp nhất quán để tính toán cả beta vốn chủ sở hữu và nợ vay (tức là sử dụng cùng một khoảng thời gian và thời đoạn ước tính tỷ suất sinh lời).

Công thức beta không vay nợ theo Fernandez vs. Hamada

Tòa án tại DFC Opinion ủng hộ việc sử dụng Công thức Hamada để tính beta không vay nợ so với Công thức Fernandez vì họ cho rằng Công thức Hamada "được chấp nhận rộng rãi, dễ hiểu và không bị tranh cãi về việc liệu nó có được tính toán đúng hay không". [6] Quan sát này rất thú vị vì chỉ có một đầu vào phân biệt hai công thức. Để xem làm thế nào, lưu ý rằng công thức Fernandez là:

trong đó βL là beta có vay nợ, βU là beta không vay nợ,  βD là beta nợ vay, là thuế suất doanh nghiệp, D là giá trị nợ và E là giá trị vốn chủ sở hữu. [7] Nếu chúng ta giả định rằng βD = 0, thì phương trình (1) trở thành

đây chính là Công thức Hamada. Do đó, câu hỏi quan trọng khi lựa chọn giữa hai công thức này là mức độ hợp lý của giả định rằng beta nợ vay của công ty bằng 0.

Vì ít nhất ba lý do, tôi cho rằng rất khó có khả năng nợ vay của một công ty sẽ có beta bằng 0, điều này ủng hộ việc sử dụng công thức phi đòn bẩy với beta nợ vay không bằng 0 như Công thức Fernandez. Đầu tiên, theo CAPM, một tài sản zero-beta dự kiến sẽ mang lại tỷ suất sinh lời phi rủi ro, nhưng các nhà đầu tư có thể sẽ không xem xét đầu tư vào nhiều hoặc bất kỳ khoản nợ doanh nghiệp nào nếu khoản nợ chỉ được kỳ vọng mang lại lãi suất phi rủi ro. Thứ hai, các nghiên cứu trước đây báo cáo beta nợ vay cho các danh mục xếp hạng rộng không bằng 0. Ví dụ, vào năm 1991, Cornell và Green đã xuất bản một bài báo báo cáo trái phiếu cao cấp có beta nợ vay là 0,25 và trái phiếu cấp thấp có beta nợ vay là 0,29 [8] và vào năm 2011, Groh và Gottschalg đã xuất bản một bài báo báo cáo trái phiếu cao cấp có beta là 0,296 và trái phiếu cấp thấp có beta là 0,410. [9] Thứ ba, như thể hiện trong Bảng 1, các beta nợ vay bất kể xếp hạng tín dụng không có khả năng bằng 0.

Kết luận:
Theo ý kiến của DFC, Tòa án ngầm đề nghị sử dụng 2 cách trên: Công thức Benninga-Sarig để ước tính Beta các khoản nợ vay và công thức Hamada để tính hệ số beta không vay nợ. Như đã nói ở trên, beta của các khoản nợ vay được ước tính theo công thức Benninga-Sarig yêu cầu sử dụng một đường Thị trường chứng khoán khác và công thức tính hệ số beta không vay nợ, nhưng kết quả cuối cùng giống beta nợ vay được ước tính theo CAPM. Chúng tôi đã chỉ ra rằng công thức Hamada chính là công thức Fernandez khi bạn giả định beta nợ vay bằng 0, nhưng việc giả định beta nợ vay bằng 0 trong công thức Hamada là không phù hợp với thực tế. Vì vậy, cả 2 cách tiếp cận này không phải là phương pháp tính tốt nhất (best practice) cho các thẩm định viên.
------
[1] Công thức này xuất hiện trong nghiên cứu năm 2004 của Fernandez [“The Value of Tax Shields Is Not Equal to the Present Value of Tax Shields,” Journal of Financial Economics 73, p. 145–165]. Tuy nhien, công thức của Fernandez xuất phát từ hệ số beta đa nhân tố dựa trên mô hình CAPM trong một nghiên cứu năm 1982 của Yagill [“On Valuation, Beta, and the Cost of Equity Capital: A Note,” The Journal of Financial and Quantitative Analysis 17, pp. 441–449].

[2] Benninga, S. and O. Sarig. 2003. “Risk, Returns, and Values in the Presence of Differential Taxation.” Journal of Banking & Finance 27, pp. 1123–1138. 


***

English Version:

Estimating Debt Betas and Beta Unlevering Formulas

Use of Benninga-Sarig to Estimate Debt Betas in a Valuation Engagement

In the July 8, 2016 In re Appraisal of DFC Global Corp. Opinion (DFC Opinion), the Court of Chancery of the State of Delaware suggested that debt betas should be estimated for individual companies and it cited Pratt and Grabowski’s Cost of Capital as a source for debt betas based on the firm’s credit rating. In addition, the Court also adopted the Hamada Formula over the Fernandez Formula to unlever betas because it believed the Hamada Formula “is widely accepted, readily understood, and not subject to dispute about whether it is properly calculated.” In this article, Clifford Ang critiques these two approaches and argues these two approaches may not be the best practice for valuation practitioners.

In the July 8, 2016 In re Appraisal of DFC Global Corp. Opinion (DFC Opinion), the Court of Chancery of the State of Delaware suggested that debt betas should be estimated for individual companies and it cited Pratt and Grabowski’s Cost of Capital as a source for debt betas based on the firm’s credit rating.[1]  In addition, the Court also adopted the Hamada Formula over the Fernandez Formula to unlever betas because it believed the Hamada Formula “is widely accepted, readily understood, and not subject to dispute about whether it is properly calculated.”[2]  As I explain below, using these two approaches may not be the best practice for valuation practitioners.

Estimating Debt Betas

Practical issues make estimating debt betas directly from the firm’s bonds extremely challenging, if not impossible.  Specifically, firms may issue many bonds and the heterogeneity of those bonds may make identification of a representative bond difficult.  In addition, even if such a bond could be identified, the bond markets are very illiquid and finding a reliable price series for such a bond could prove challenging.  As an alternative, the Court in the DFC Opinion suggested using debt betas by credit rating reported in Pratt and Grabowski’s Cost of Capital.  

In that bookthe authors estimate debt betas using the Benninga-Sarig “tax adjusted cost of debt SML [Security Market Line],” which is     

where RD is the cost of debt, RF is the risk-free rate, βD is the debt beta, RM is the return on the market, and t is the corporate tax rate.  The Benninga-Sarig formula was developed to arrive at a CAPM-like approach when there are different tax rates for debt and equity and this methodology, in addition to modifying the SML for debt, also requires a modified equity SML equation (i.e., you are no longer using the CAPM) and a modified beta unlevering formula (i.e., you cannot use the standard beta unlevering formulas, such as those discussed below).[3]  As a consequence, the debt betas reported in Cost of Capital are calculated in a manner that is inconsistent with the CAPM that is used by practitioners.

Moreover, in a later edition of the financial modeling book relied upon in the Cost of Capital, even the author questions the usefulness of the formula he developed.  Specifically, Benninga writes:

“Although the tax-adjusted CAPM is more consistent with an economy with taxation, we confess that—given the uncertainties surrounding cost of capital computations—the difference between the classic CAPM and the tax-adjusted CAPM may not be worth the trouble.”[4]

Therefore, we have to determine whether there are any benefits to using the Benninga-Sarig formula.  As a simple test, I compare the debt betas reported in the Duff & Phelps 2016 Valuation Handbook, which uses the same Benninga-Sarig formula as the Cost of Capital but using updated data for the four quarters of 2015 against debt betas calculated using the CAPM.[5]  For robustness, I use two market proxies for my market model: S&P 500 Index and the SPDR S&P 500 ETF.  I obtain price data for the two market proxies from Yahoo Finance.  Following the methodology in the Duff & Phelps Valuation Handbook, I use the Barclays U.S. Corp and HY Bond Indexes from Morningstar Direct for the bond index data by credit rating and the debt betas are estimated using five years of monthly returns.  The results of my test are reported in Table 1.

As Table 1 shows, there is virtually no difference in the calculated betas using the Benninga-Sarig formula and the CAPM.  Therefore, there appears to be no practical benefit to using the Benninga-Sarig debt betas over the CAPM that would offset the need to deviate from the CAPM and standard beta unlevering formulas.  Moreover, using the CAPM gives the added benefit of allowing the valuation practitioner to use a consistent methodology to calculate both the equity and debt betas (i.e., using the same return interval and estimation period).

Fernandez vs. Hamada Unlevering Beta Formulas

The Court in the DFC Opinion favored the use of the Hamada Formula to unlever debt betas over the Fernandez Formula because it opined that the Hamada Formula “is widely accepted, readily understood, and not subject to dispute about whether it is properly calculated.”[6]  This observation is interesting because only one input differentiates the two formulas.  To see how, note that the Fernandez formula is

where βL is the levered beta, βU is the unlevered beta, βD is the debt beta, is the corporate tax rate, D is the value of debt, and E is the value of equity.[7]  If we assume that βD = 0, then Eq. (1) becomes

which is the Hamada Formula.  Therefore, the important question when choosing between these two formulas boils down to how reasonable is an assumption that the firm’s debt beta is equal to zero.

For at least three reasons, I argue it is highly unlikely that a firm’s debt would have a beta of zero, which supports the use of an unlevering formula that incorporates a non-zero debt beta such as the Fernandez Formula.  First, based on the CAPM, a zero-beta asset is expected to yield the risk-free rate of return, but investors will likely not consider investing in many, or any, corporate debt if the debt were only expected to yield the risk-free rate.  Second, prior studies report debt betas for broad ratings categories that are not equal to zero.  For example, in 1991, Cornell and Green published a paper that reported high-grade bonds have a debt beta of 0.25 and low-grade bonds have a debt beta of 0.29[8] and, in 2011, Groh and Gottschalg published a paper that reported high-grade bonds have a beta of 0.296 and low-grade bonds have a beta of 0.410.[9]  Third, as shown in Table 1, debt betas regardless of credit ratings are unlikely to equal zero.

Summary

In the DFC Opinion, the Court implicitly suggested the use of two procedures: the Benninga-Sarig formula to estimate debt betas and the Hamada formula to unlever betas.  As shown above, debt betas estimated using the Benninga-Sarig formula require the use of a different Security Market Line and beta unlevering formula, but the ultimate results are virtually identical to debt betas estimated using the CAPM.  We also showed that the Hamada formula is the Fernandez formula when you assume a debt beta of zero, but the zero debt beta assumption required by the Hamada formula unlikely holds in practice.  Therefore, using these two approaches may not be the best practice for valuation practitioners.

* Vice President at Compass Lexecon. E-mail: cang@compasslexecon.com. Opinions expressed herein are solely those of the author and are not opinions of Compass Lexecon or its other employees.

[1] DFC Opinion note 144.

[2] DFC Opinion at 33.

[3] Benninga, S. and O. Sarig. 2003. “Risk, Returns, and Values in the Presence of Differential Taxation.” Journal of Banking & Finance 27, pp. 1123–1138.

[4] Benninga, S. 2014. Financial Modeling, 4th ed. MIT Press, p. 98.

[5] Consistent with what is typically done in practice, I estimate betas using a market model of the form: RD = a + b * R­M.

[6] DFC Opinion at 33.

[7] This formula appeared in a published article in 2004 by Fernandez [“The Value of Tax Shields Is Not Equal to the Present Value of Tax Shields,” Journal of Financial Economics 73, p. 145–165]. However, the form of the Fernandez Formula has been derived from beta factors based on the CAPM in a published article in 1982 by Yagill [“On Valuation, Beta, and the Cost of Equity Capital: A Note,” The Journal of Financial and Quantitative Analysis 17, pp. 441–449].

[8] Cornell, B. and K. Green. 1991. “The Investment Performance of Low-Grade Bond Funds.” The Journal of Finance 46, pp. 29–48, at p. 34.

[9] Groh, A. and O. Gottschalg. 2011. “The Effect of Leverage On the Cost of Capital of U.S. Buyouts.” Journal of Banking & Finance 35, pp. 2099–2110, at p. 2019.

Mô hình CAPM 5 nhân tố của Fama - French: Tại sao nhiều hơn không phải lúc nào cũng tốt hơn ?

MÔ HÌNH CAPM 5 NHÂN TỐ CỦA FAMA-FRENCH: TẠI SAO NHIỀU HƠN KHÔNG PHẢI LÚC NÀO CŨNG TỐT HƠN ?

Người dịch: Admin Group Tôi học Thẩm định giá
(Nội dung bài viết hơi chuyên sâu một chút, dành cho những ai quan tâm tới tỷ suất chiết khấu. Đây là một trong số nhiều bài đọc bắt buộc mà mình yêu cầu học viên phải đọc trong khóa học của mình)
Năm 2015, Fama và French đã mở rộng mô hình 3 nhân tố ban đầu của họ bằng cách thêm hai nhân tố. Chúng ta nghĩ gì về điều này?

Ba chuyên gia Robeco về định giá tài sản thực nghiệm đưa ra quan điểm. Họ thừa nhận những đóng góp lớn trước đây của Fama và French cho lý thuyết tài chính và vì vậy họ đã rất quan tâm nghiên cứu bài báo mới này. Tuy nhiên, cuộc tranh luận vẫn tiếp tục - họ có quan điểm chỉ trích về mô hình mới được đề xuất.
Người đoạt giải Nobel Eugene Fama và Kenneth French đã phát triển mô hình 5 nhân tố để mô tả lợi nhuận cổ phiếu bằng cách thêm hai nhân tố mới vào mô hình 3 nhân tố cổ điển (1993) của họ. Mô hình CAPM 3 nhân tố bao gồm: rủi ro thị trường, quy mô và giá trị. Hiệu ứng quy mô là việc các cổ phiếu có vốn hóa nhỏ sẽ đem lại tỷ suất lợi nhuận cao hơn so với các cổ phiếu có vốn hóa lớn, và đã được phát hiện là tồn tại trong giai đoạn 1963-1990. Hiệu ứng giá trị là suất sinh lợi vượt trội của cổ phiếu có P/B thấp so với cổ phiếu có P/B cao.
Fama và French hiện đã bổ sung thêm biến "khả năng sinh lời" (cổ phiếu có khả năng sinh lời cao từ hoạt động kinh doanh sẽ đem lại lợi suất tốt hơn) và yếu tố đầu tư (cổ phiếu của các công ty có tổng tài sản tăng trưởng cao có lợi nhuận dưới mức trung bình). Cả hai nhân tố mới đều là những ví dụ cụ thể về những gì thường được gọi là nhân tố chất lượng (quality factor). Bài báo 'Mô hình định giá tài sản năm nhân tố' được xuất bản trên Journal of Financial Economics vào tháng 4 năm 2015. Chúng tôi đã hỏi ba chuyên gia Robeco, những người gần đây đã xuất bản một bài báo nghiên cứu về chủ đề này trên Journal of Portfolio Management, họ nghĩ gì về mô hình mới. Pim van Vliet , Giám đốc danh mục đầu tư vốn cổ phần, David Blitz, Trưởng phòng Nghiên cứu định lượng và Matthias Hanauer, Nhà nghiên cứu định lượng, đã thảo luận về các hàm ý này.
THÊM NHIỀU YẾU TỐ HƠN CÓ NHỮNG NHƯỢC ĐIỂM
Van Vliet xem việc bổ sung thêm hai nhân tố chất lượng là một sự thay đổi lớn so với mô hình cũ. ”Nếu bạn loại trừ rủi ro thị trường, mô hình mới sẽ tăng gấp đôi số yếu tố lên thành bốn yếu tố. Tất cả những yếu tố này tương tác với nhau, điều này khiến cho việc nắm bắt tỷ suất lợi nhuận của cổ phiếu trở nên khó khăn hơn ”.
David Blitz cũng chỉ trích về cách tiếp cận nghiên cứu thực nghiệm. “Cách tiếp cận này thậm chí có thể được coi là một hình thức suy luận hiển nhiên đúng, bởi vì họ sử dụng năm yếu tố để giải thích lợi nhuận của năm yếu tố tương tự”.
Do đó, hai yếu tố mới (khả năng tạo ra lợi nhuận và đầu tư) được sử dụng để giải thích hiệu suất của chính chúng. Tôi sẽ thích nó hơn nếu họ chỉ ra rằng chỉ một số yếu tố có thể được sử dụng để giải thích hiệu suất của nhiều yếu tố được tìm thấy trong bài báo. Họ làm điều này trong nghiên cứu tiếp theo, nhưng nó phải là cơ sở cho việc nghiên cứu của họ.
NHỮNG GÌ HỌ ĐỂ LẠI LÀ MỘT ĐIỀU BẤT NGỜ
Van Vliet ngạc nhiên hơn bởi những yếu tố mà họ không đưa vào mô hình. “Mô hình mới vẫn bỏ qua hiệu ứng theo đà (momentum), trong khi yếu tố này được chấp nhận rộng rãi trong giới học thuật và đã tồn tại được 20 năm”.
Họ cũng bỏ qua yếu tố biến động thấp (low volatility factor), mặc dù đối với Blitz thì đây không phải là một bất ngờ lớn. Ông nói: “Có một lý do thực tế để loại trừ nó, bởi vì không dễ kết hợp với yếu tố rủi ro thị trường trong mô hình ba yếu tố. “Yếu tố thị trường, tương tự như hệ số beta của mô hình định giá tài sản vốn, vẫn giả định lợi nhuận cao hơn cho rủi ro cao hơn, trong khi yếu tố biến động thấp sẽ giả định ngược lại. Một cách tiếp cận thay thế sẽ là loại bỏ hoàn toàn yếu tố thị trường, nhưng họ đã không chọn bước đi triệt để hơn này ”.
Blitz cho rằng Fama và French đã quá nhanh khi thêm hai yếu tố vào. “Hai yếu tố mới mà họ đã thêm vào là những khám phá tương đối gần đây và việc nghiên cứu các yếu tố này ở các thị trường khacs nhau và khoảng thời gian khác nhau vẫn còn bị hạn chế.”
Hanauer nói rằng một định nghĩa khác về hai yếu tố liên quan đến chất lượng có thể phù hợp hơn. Ông nói: “Họ đã thêm hai yếu tố vào nhưng không rõ tại sao họ lại chọn những định nghĩa chính xác này. “Theo tôi, định nghĩa về gross profitability do Robert Novy-Marx đưa ra sẽ là một lựa chọn tự nhiên.”
Blitz cho rằng thêm hai yếu tố là một bước tiến lớn, nhưng ở một khía cạnh nào đó, đó chỉ là cải thiện khiêm tốn. “Trong bài báo AQR, 'quality minus junk' (Người dịch - chiến lược bán khống cổ phiếu rác và nắm giữ cổ phiếu chất lượng), hai mươi biến chất lượng cơ bản được sử dụng, chỉ hai trong số đó được Fama và French lựa chọn. Tại sao chọn hai thay vì hai mươi? Tại sao lại chọn hai biến cụ thể đó? Rất nhiều câu hỏi vẫn chưa được giải đáp ”. Đừng hiểu sai ý tôi, anh ấy nói thêm. “Tôi không phản đối hai biến phụ này, nhưng tại sao họ lại cho chúng một ưu tiên đặc biệt bằng cách đưa chúng vào một mô hình, trong khi một loạt các biến khác cũng có sẵn?”
Theo Hanauer, hai yếu tố chất lượng mâu thuẫn với những phát hiện trước đó của Fama và French. “Trong bài báo năm 2008, mổ xẻ các điểm bất thường, họ đã tuyên bố rằng sự bất thường về tăng trưởng tài sản và khả năng sinh lời kém mạnh mẽ hơn. Tuy nhiên, trong mô hình 5 nhân tố, họ sử dụng chính xác biến tăng trưởng tài sản này trong hệ số đầu tư của mình.
Ý KIẾN VỀ CÁC HÀM Ý CHÍNH
Ba chuyên gia được phân chia về hàm ý chính của mô hình 5 nhân tố. Blitz gợi ý rằng Fama và French có thể đã xa rời niềm tin kiên định trước đây của họ vào thị trường hiệu quả, nơi mối quan hệ giữa rủi ro và lợi nhuận là tuyến tính và thuận chiều.
“Mô hình ba yếu tố vẫn phù hợp với niềm tin này, bởi vì họ coi quy mô và giá trị là các yếu tố rủi ro, giống như rủi ro thị trường trong mô hình định giá tài sản vốn. Nhưng bây giờ họ thậm chí không bận tâm đến việc làm thế nào để hai yếu tố chất lượng mới phù hợp với khung phân tích cũ của họ, hoặc liệu có những giải thích hành vi cho những yếu tố này hay không ”.
Hanauer thực sự nhìn thấy một khía cạnh sáng sủa của mô hình mới. "Bất chấp tất cả những lời chỉ trích, bài báo vẫn lấp đầy một khoảng trống trong học thuật về hai yếu tố chất lượng này." Van Vliet nói rằng Fama và French đã làm rất tốt với mô hình ban đầu năm 1993 của họ trong việc giảm thiểu số lượng các yếu tố được đề xuất trong nhiều bài báo khác nhau vào những năm 1980. “Và bây giờ họ đã thêm hai cái nữa. Những yếu tố bổ sung này sẽ cung cấp một số gợi ý đáng suy ngẫm trong những năm tới."
(Nguồn: Robeco.com)
---------
1. Fama, E., and K. French. “A Five-Factor Asset Pricing Model.” Journal of Financial Economics, 116 (2015), pp. 1-22.
Working Paper (September 2014) available at SSRN (free download)
2. Fama, E., and K. French. “Common Risk Factors in the Returns on Stocks and Bonds.” Journal of Financial Economics, 33 (1993), pp. 3-56.
3. Novy-Marx, R. “The Other Side of Value: The Gross Profitability Premium.” Journal of Financial Economics 108(1), 2013, 1-28
4. Fama, E., and K. French. “Dissecting Anomalies.” Journal of Finance, (August 2008), pp. 1653-1678. Working Paper (June 2007) available at SSRN (free download)
5. Fama, Blitz, David and Hanauer, Matthias X. and Vidojevic, Milan and van Vliet, Pim, Five Concerns with the Five-Factor Model (November 1, 2016). Available at SSRN (free download)

THỰC CHẤT CÁI GỌI LÀ “HỢP ĐỒNG HỢP TÁC ĐẦU TƯ/GÓP VỐN/VAY” TRONG GIAO DỊCH BẤT ĐỘNG SẢN HÌNH THÀNH TRONG TƯƠNG LAI

  Bài viết của HiepHoPe từ group Đam mê Bất động sản. Mình share lại cho mọi người đọc và cùng cho ý kiến. -------- Phần 2 : Cái bẫy cũ của ...