27/06/2023

Định giá Bất động sản cho mục đích tính thuế tại Indonesia

Chính phủ Indonesia khởi xướng Chương trình Cải thiện PBB (PBBIP) năm 1987 để tạo thuận lợi cho việc thực hiện Luật PBB số 12/1985. Khoảng 10% của Khoản vay Khu vực Đô thị (270 triệu USD) từ Ngân hàng Thế giới đã được dành để hỗ trợ cho PBBIP, tương đương 25,6 triệu USD. Lúc đầu hầu hết sự quan tâm và nguồn lực đều hướng vào cải thiện công tác định giá bất động sản. Ví dụ, 98% ngân sách của PBBIP lấy từ Khoản vay Khu vực Đô thị được phân bổ cho các hoạt động định giá bất động sản, chú trọng vào đánh giá bất động sản đắt tiền ở đô thị và đào tạo ở nước ngoài.

Mặc dù có “Kế hoạch hành động B của PBB” để cải thiện công tác quản lý và điều hành thuế, những hoạt động này chủ yếu được xem như là tăng phạm vi thu thuế thông qua việc cải thiện các thủ tục phát hiện, đăng ký và định giá tài sản. Nhu cầu cải thiện hệ thống hành thu và cưỡng chế chỉ được ghi nhận chung chung, không kèm theo một chiến lược cụ thể hay nguồn lực đáng kể. Việc PBBIP đặt trọng tâm vào công tác đăng ký và định giá bất động sản cũng được phản ánh trong các hoạt động của Cơ quan PBB trong suốt quá trình thực hiện PBBIP.
Theo Kế hoạch hành động A PBB, từng bất động sản trong số 10.000 bất động sản có giá trị cao tại các thành phố như Jakarta, Bandung và Medan được các công ty hoặc tổ chức định giá nước ngoài, kết hợp với các đối tác trong nước, xác định giá trị. Hiện tại hơn 50.000 bất động sản ở Jakarta được định giá theo phương pháp bán cá nhân do mười người định giá PBB dưới sự hướng dẫn của 10 nhân viên định giá nước ngoài. Ngoài ra, chương trình cũng cấp học bổng 3 năm để học lấy bằng định giá chuyên nghiệp ở các trường đại học ở nước ngoài, bên cạnh các khóa học định giá kéo dài ba tháng tại Viện Định giá Quốc gia của chính phủ Malaysia"
Ở nông thôn cũng như thành thị, thuế đánh vào bất động sản đã tăng trong khoảng từ 8,1% (ở Irian Jaya) đến 55,6% (ở Đông Nam Sulawesi) từ 1989 đến 1990, tăng bình quân 19,1% (xem Bảng V-8). Có lẽ tình cờ mà số 41.383 bất động sản được định giá chuẩn ở Jakarta cũng tăng giá trị 19,1% từ năm 1988 đến 1989. Mục tiêu tổng thể của PBBIP là 1985/86 đến 1988/89 phải tăng gấp đôi số thuế bất động sản. Thực tế là mục tiêu này đã hoàn thành một năm trước thời hạn, trước cả khi các công tác dữ liệu và định giá có tác động đến việc tính thuế.


Cũng có nhiều tranh luận về chất lượng của phương pháp định giá mới dựa vào máy tính, về việc tính thuế ngang nhau cho các loại bất động sản tương tự, về việc tính thuế tương đối nhất quán cho các đối tượng khác nhau, về năng lực của Cơ quan PBB trong việc cung cấp dữ liệu cần thiết để duy trì mô hình, và về năng lực của cán bộ thuế và người nộp thuế để hiểu rõ cách tính tiền thuế dựa vào máy tính:
Mô hình định giá phải được đơn giản hóa và sau đó thử theo các tiêu chuẩn thẩm định giá. Điều này sẽ bảo đảm rằng mô hình dự báo giá trị thị trường một cách chính xác, có thể giải thích cho người nộp thuế hiểu và có thể được xây dựng với nhu cầu dữ liệu tối thiểu.
(Trích Chương 5. Nghiên cứu thuế BĐS của Indonesia - GS. Jay Rosengard, trường Harvard Kenedy School, ĐH Harvard)

24/06/2023

Hiểu lầm phổ biến về phương pháp thặng dư (phần 1)

Hôm qua, tình cờ tôi đọc được một bài viết về phương pháp thặng dư đăng trên tạp chí Markettimes.  Có một số quan điểm tôi đồng tình nhưng cũng có một số quan điểm tôi nghĩ nếu tác giả hiểu đúng về phương pháp thặng dư và phương pháp thu nhập thì bài viết sẽ có tính thuyết phục hơn và hoàn thiện hơn. Vì không thể liệt kê hết, tôi xin trích lược 1 số nội dung trong bài viết và ý kiến đóng góp của mình:

"Theo Điểm c, d Khoản 2 Điều 5 Nghị định 44/2014/NĐ-CP quy định trường hợp áp dụng của Phương pháp Thu nhập như sau:
c) Phương pháp thu nhập được áp dụng để định giá đối với thửa đất xác định được các khoản thu nhập, chi phí từ việc sử dụng đất;”
“d) Phương pháp thặng dư được áp dụng để định giá đối với thửa đất có tiềm năng phát triển do thay đổi quy hoạch hoặc chuyển mục đích sử dụng đất khi xác định được tổng doanh thu phát triển giả định và tổng chi phí ước tính;”
Quy định hiện hành này đang phù hợp với lý thuyết trong thẩm định giá hướng dẫn Phương pháp thu nhập tại Tiêu chuẩn thẩm định giá số 10, Cách tiếp cận từ thu nhập (Lưu ý cùng cách tiếp cận từ thu nhập của Tiêu chuẩn thẩm định giá Việt Nam nhưng vẫn tồn tại 2 phương pháp thu nhập và thặng dư) dang định nghĩa như sau:
- Phương pháp vốn hóa trực tiếp (phương pháp thu nhập – TG) là phương pháp thẩm định giá xác định giá trị của tài sản thẩm định giá dựa trên cơ sở quy đổi dòng thu nhập thuần ổn định hàng năm dự kiến có được từ tài sản về giá trị hiện tại thông qua việc sử dụng tỷ suất vốn hóa phù hợp. Phương pháp vốn hóa trực tiếp thuộc cách tiếp cận từ thu nhập.”
- Phương pháp dòng tiền chiết khấu (phương pháp thặng dư – TG) được áp dụng trong trường hợp thu nhập từ tài sản biến đổi qua các giai đoạn khác nhau (không ổn định), ví dụ như trường hợp một doanh nghiệp vừa bắt đầu hoạt động hoặc một công trình mới bắt đầu xây dựng.”
Ở đây tác giả có sự hiểu nhầm về phương pháp của Tiêu chuẩn TĐGVN do Bộ Tài chính ban hành (gồm pp vốn hóa trực tiếp và pp dòng tiền chiết khấu) với phương pháp thu nhập, phương pháp thặng dư trong Thông tư 36 do Bộ TNMT ban hành. 
Phương pháp thu nhập trong Thông tư 36 không hoàn toàn giống như phương pháp vốn hóa trực tiếp trong Tiêu chuẩn TĐG. 
  • Mẫu số trong phương pháp vốn hóa trực tiếp (direct capitalization method, xem công thức chuẩn tại đây) là cap rate (tỷ suất vốn hóa, đó là lí do tại sao phương pháp này gọi là vốn hóa trực tiếp) còn mẫu số trong phương pháp thu nhập của TT36 là lãi suất tiền gửi tiết kiệm, không phải tỷ suất vốn hóa
  • Tử số trong phương pháp vốn hóa trực tiếp (Tiêu chuẩn TĐG VN) là thu nhập thuần từ BĐS (NOI) được giả định là không đổi và duy trì mãi mãi. Nếu dòng tiền vẫn không đổi nhưng lại có thời hạn thì sử dụng phương pháp dòng tiền chiết khấu DCF trong trường hợp dòng tiền đều. Trong khi đó, phương pháp thu nhập (Thông tư 36) tính cho cả trường hợp dòng tiền vô hạn và có thời hạn (sử dụng lãi suất điều chỉnh theo thời hạn - bản chất là công thức biến đổi của DCF).
Điều đó có nghĩa, bản chất phương pháp thu nhập (TT36) không phải là phương pháp vốn hóa trực tiếp trong Tiêu chuẩn TĐG VN. Phương pháp thu nhập theo Thông tư 36 gồm cả phương pháp vốn hóa trực tiếp và phương pháp dòng tiền chiết khấu trong trường hợp dòng tiền đều hữu hạn, nhưng lại sử dụng lãi suất tiền gửi tiết kiệm thay vì cap rate. Vì vậy cũng có thể coi phương pháp thu nhập theo Thông tư 36 là phương pháp dòng tiền chiết khấu trong trường hợp dòng tiền đều vô hạn và hữu hạn.

Một hiểu lầm thứ hai là tác giả cho rằng phương pháp thặng dư (TT36) là phương pháp dòng tiền chiết khấu trong Tiêu chuẩn TĐGVN. Thực ra theo đúng tiêu chuẩn quốc tế, phương pháp thặng dư không thuộc 1 cách tiếp cận duy nhất mà sử dụng cả 3 cách tiếp cận: so sánh - thu nhập - chi phí. Tiêu chuẩn TĐG Việt Nam cũng quy định về phương pháp dòng tiền chiết khấu ở Tiêu chuẩn 10 còn phương pháp thặng dư ở Tiêu chuẩn 11 cũng là minh chứng rõ ràng cho việc đây là 2 phương pháp khác nhau. Mặc dù phương pháp thặng dư có sử dụng kỹ thuật (technique) chiết khấu dòng tiền nhưng phương pháp (method) dòng tiền chiết khấu và phương pháp thặng dư là 2 phương pháp khác nhau, cả trong Tiêu chuẩn TĐG VN và trong Thông tư 36.

Trong bài, tác giả tiếp tục phân tích:
"Trong lý thuyết để đánh giá hiệu quả đầu tư, nếu rủi ro càng cao sẽ tương ứng với lợi nhuận thu được sẽ cao và ngược lại; Do đó, nếu thửa đất (dự án) có tiềm năng phát triển, chưa tạo ra doanh thu còn phải chịu rủi ro trong quá trình đầu tư và về nhận định chủ quan của thị trường trong tương lai xa (hết giai đoạn đầu tư), rủi ro cao hơn thửa đất đã tạo ra doanh thu, tức là đã hết rủi ro giai đoạn đầu tư, đã có thời gian chứng minh được hiệu quả khai thác mà chỉ còn rủi ro trong giai đoạn vận hành khai thác. Đây là lý do giá đất của phương pháp Thặng dư luôn thấp hơn giá đất của phương pháp Thu nhập. "
Theo đúng nguyên lý tài chính cơ bản và đúng trên cả thực tế, không phải rủi ro càng cao thì lợi nhuận càng cao. Các bạn có thể đầu tư cổ phiếu có rủi ro cao hơn trái phiếu nhưng vẫn thua lỗ hoặc lãi thấp hơn trái phiếu là chuyện bình thường. Dân tài chính thường nói "high risk - high expected return" (rủi ro cao, lợi nhuận kỳ vọng cao). Tuy nhiên đây không phải lý do giá đất của pp thặng dư thấp hơn giá đất của phương pháp thu nhập. Vì rủi ro của việc xây dựng và vận hành cao hơn được phản ánh vào tỷ suất chiết khấu, song thu nhập kỳ vọng mà tài sản tạo ra trong tương lai sẽ cao hơn phương án chỉ vận hành ở phương pháp thu nhập (tử số cao hơn). Trên lý thuyết, 2 phương pháp này sẽ cho cùng kết quả nếu xác định đúng các thông số. 
"Nếu bàn sâu về kết quả của 2 phương pháp sẽ thấy quy định hiện nay cho thấy tại sao kết quả định giá đất có mức độ chênh lệch lớn: Phương pháp thu nhập không tính lợi nhuận của giá trị đã đầu tư, lợi nhuận trên giá đất, giá trị đầu tư tính trên giá trị còn lại (khác với nguyên giá xây mới) để xác định vào chi phí hợp lý cho chủ đầu tư như phương pháp thặng dư; Trong khi tỷ suất vốn hoá (phương pháp thu nhập) rất thấp do lấy theo lãi suất huy động so với tỷ suất chiết khấu (phương pháp thặng dư) lấy theo lãi suất cho vay. Theo công thức toán học đơn thuần, khi kết hợp vào công thức tính giá đất cho thấy: tử số (thu nhập, thu nhập phát triển từ thửa đất) càng lớn, mẫu số (tỷ suất vốn hoá, chiết khấu) càng nhỏ thì kết quả càng cao và ngược lại. "
Đây là hiểu nhầm phổ biến của nhiều người về phương pháp thặng dư và phương pháp thu nhập. Phương pháp thặng dư định giá đất với giả định NĐT thực hiện dự án phát triển và đương nhiên dòng tiền dự án tạo ra khi hoàn thành sẽ cao hơn so với trường hợp định giá đất nguyên trạng và chỉ khai thác vận hành như trong phương pháp thu nhập. Đánh đổi với việc dòng tiền sau khi phát triển cao hơn là phải trừ đi chi phí phát triển và lợi nhuận nhà phát triển. Do vậy không thể kết luận rằng dùng phương pháp thu nhập thì tử số cao hơn phương pháp thặng dư. 
Về tỷ suất chiết khấu/tỷ suất vốn hóa, tôi đồng ý rằng đều được quy định chưa phù hợp. 
Ngoài những nội dung trên, tôi cũng đồng ý với tác giả rằng nhà nước có sự mâu thuẫn giữa nguyên tắc "phù hợp với thị trường" và nguyên tắc "đảm bảo lợi ích cao nhất cho nhà nước".

Tham gia nhóm học tập và thảo luận Thẩm định giá tại ĐÂY

22/06/2023

Nguồn gốc thần chú "Theo kinh nghiệm" của dân Thẩm định giá

(For fun) Tôi nghĩ mình đã tìm ra nguồn gốc của thần chú "theo kinh nghiệm" được sử dụng rộng rãi bởi các TĐV Việt Nam. Ảnh dưới trích từ cuốn sách cổ của dân Thẩm định giá Việt Nam. Các bạn khó có thể tìm mua nó trên thị trường.


Empirical investigation nếu dịch đúng phải là điều tra thực nghiệm, tức là dựa trên bằng chứng thực tế, cụ thể, khoa học nhưng trong tài liệu này lại được dịch thành "điều tra kinh nghiệm". Từ
Empirical phải dịch tương tự với nghĩa trong từ "Empirical research" là nghiên cứu thực nghiệm.

Có người nói với tôi rằng ngày xưa, muốn có kiến thức thì phải đọc sách; còn ngày nay muốn đọc sách phải có kiến thức. Bài viết này chỉ để vui và cũng để mọi người chú ý hơn khi đọc/dịch tài liệu chuyên ngành, tôi không có ý châm biếm ai cả và cũng sẽ không tiết lộ tên cuối sách.

Nhầm lẫn trong việc xác định phần bù rủi ro Rp ?

(Trích bài đăng của tôi ngày 16/10/2021 trong Group chuyên sâu về Thẩm định giá) 
Hôm nay, tôi đưa ra vấn đề để mọi người cùng bàn, một con số rất quen thuộc và TĐV thường hay sử dụng nhưng chưa thực sự hiểu rõ: Phần bù rủi ro Rp.
Cũng giống như Tiêu chuẩn 12 cũ (Thông tư 122/2017/TT-BTC), Tiêu chuẩn 12 mới (Thông tư 28/2021/TT-BTC) đưa ra 3 phương pháp ước tính chi phí vốn chủ sở hữu (Re). Qua quan sát từ quá trình giảng dạy và làm việc, mình thấy phương pháp thứ 3 trong Tiêu chuẩn 12 mới (và là phương pháp 2 trong Tiêu chuẩn 12 cũ) được phần lớn Thẩm định viên sử dụng và hầu hết là áp dụng sai, một phần do văn bản ko rõ ràng về thuật ngữ.
Hướng dẫn của Tiêu chuẩn 12 mới về Phương pháp 3 như sau:
Chi phí sử dụng vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp cần thẩm định giá được tính theo công thức sau:
Re = Rf + Rp
- Tỷ suất lợi nhuận phi rủi ro (Rf) được ước tính trên cơ sở lãi suất trái phiếu Chính phủ kỳ hạn 10 năm hoặc kỳ hạn dài nhất và gần thời điểm thẩm định giá.
- Phần bù rủi ro vốn chủ sở hữu (Rp) được xác định theo phần bù rủi ro vốn chủ sở hữu của Việt Nam được công bố tại các cơ sở dữ liệu tài chính quốc tế đáng tin cậy

Trước hết, điểm lại lịch sử của công thức này. Trước khi có Tiêu chuẩn 12 (2017), Thông tư 127/2014/TT-BTC ngày 05/9/2014 hướng dẫn ước tính tỷ suất chiết khấu khi thực hiện xác định giá trị DN thực hiện CPH như sau:
K: Tỷ lệ chiết khấu hay tỷ lệ hoàn vốn cần thiết của các nhà đầu tư khi mua cổ phần và được xác định theo công thức:
K = Rf + Rp
Rf: Tỷ suất lợi nhuận thu được từ các khoản đầu tư không rủi ro, chỉ tiêu này được tính bằng lãi suất của trái phiếu Chính phủ có kỳ hạn 5 năm đã phát hành ở thời điểm gần nhất với thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp.
Rp: Tỷ lệ phụ phí rủi ro khi đầu tư mua cổ phần của các công ty ở Việt Nam, chỉ tiêu này được xác định theo bảng chỉ số phụ phí rủi ro chứng khoán quốc tế tại niên giám định giá hoặc do các công ty định giá xác định cho từng doanh nghiệp nhưng không vượt quá tỷ suất lợi nhuận thu được từ các khoản đầu tư không rủi ro (Rf).


Đến khi Tiêu chuẩn 12 cũ (Thông tư 122/2017/TT-BTC) ra đời thì công thức này là phương pháp 2 để ước tính chi phí vốn chủ sở hữu.

Chi phí sử dụng vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp cần thẩm định giá được tính theo công thức sau:
Re = Rf + Rp
- Tỷ suất lợi nhuận phi rủi ro (Rf) được ước tính trên cơ sở lãi suất trái phiếu Chính phủ kỳ hạn 10 năm hoặc kỳ hạn dài nhất tại thời điểm thẩm định giá.
- Tỷ lệ phụ phí rủi ro (Rp) được xác định theo chỉ số phụ phí rủi ro chứng khoán quốc tế do các tổ chức tư vấn tài chính quốc tế công bố. Thẩm định viên cần cân nhắc lập luận, điều chỉnh để áp dụng phù hợp với thực tế của doanh nghiệp cần thẩm định giá.


 Nhiều TĐV đã và đang xác định Rp này bằng cách...lấy từ 1 nguồn nước ngoài, sau đó cộng thẳng Re = Rf + Rp. Mà không hiểu bản chất Rp trong công thức và Rp từ các nguồn nước ngoài đó là khác nhau. Phần bù rủi ro của tài sản, của vốn cổ phần DN, của thị trường vốn, của quốc gia là khác nhau !

Nếu các bạn dùng Rp được công bố và ráp vào công thức Re = Rf + Rp, thì một dự án cầu đường hay dự án nhiệt điện, một dự án BĐS hay dự án nông nghiệp thì cũng có cùng 1 tỷ suất chiết khấu, bất chấp rủi ro của dự án, của doanh nghiệp. Điều này hiển nhiên bất hợp lý. Trong một tài liệu của Deloitte về các lỗi sai phổ biến khi ước lượng tỷ suất chiết khấu, lời khuyên được đưa ra là người phân tích cần "match the discount rate to the risk" và "No single discount rate will work in all circumstances".
Trước hết về mặt lý thuyết, công thức trên xuất phát từ đâu ? Chẳng từ đâu cả, nó chỉ là 1 công thức tổng quát hơn của CAPM. Công thức càng tổng quát nghĩa là càng khó áp dụng vào thực tiễn. Bởi vậy mới sinh ra cái CAPM, mặc dù single-factor CAPM ko vượt qua được các kiểm định lý thuyết nhưng lại được sử dụng rộng rãi nhất vì cung cấp cho người thực hành một cách rất trực quan để có thể ước lượng Rp.
Xem hình: Rp trong công thức Re = Rf + Rp

Suy cho cùng, không thể dùng Rp được công bố để ráp vào công thức Re = Rf + Rp mà ko điều chỉnh (nhưng điều chỉnh thế nào thì Tiêu chuẩn lại không nói 😅 )
Đấy là lý do trong Tiêu chuẩn 12 mới (2021) đã đưa 1 câu mà ít người để ý: "Thẩm định viên cần đánh giá, lập luận, điều chỉnh Re trên cơ sở quy mô, tính thanh khoản và các yếu tố khác có liên quan nhằm phản ánh được rủi ro của riêng doanh nghiệp cần thẩm định giá". Thực ra câu này xuất hiện trong cả 3 phương pháp, mình không hiểu lắm "rủi ro của riêng DN cần TĐG" là như thế nào. Ý là rủi ro đặc thù của DN (unsystematic risk, Specific risk) hay sao ? Hi vọng là ko phải như vậy.
Thiết nghĩ, cụm từ "rủi ro của riêng DN cần TĐG" và cụm từ "được xác định theo" trong đoạn "Phần bù rủi ro vốn chủ sở hữu (Rp) được xác định theo phần bù rủi ro vốn chủ sở hữu của Việt Nam " nên được viết rõ ràng hơn, tránh gây hiểu lầm và tranh cãi giữa các TĐV. Đồng thời các TĐV cũng cần lưu ý tìm hiểu ngọn ngành nguồn gốc và bản chất của số liệu tính toán được công bố cũng như các dữ liệu thứ cấp khác trước khi sử dụng 

Sử dụng Drone để khảo sát bất động sản

Nguồn: RICS


Điều khiển Drone rất trực quan và chỉ mất một thời gian ngắn để làm quen. Chỉ sau một giờ, tôi đã có thể điều khiển chúng qua một farm building, đủ gần để kiểm tra mái nhà.

Drone đang nhanh chóng trở thành một bộ công cụ hỗ trợ khảo sát phổ biến. Về khả năng chụp ảnh từ trên không và khả năng sử dụng cho khảo sát của drone đã mở ra cho tôi một thế giới tương lai tiềm năng mà tôi khó có thể tưởng tượng được 24 giờ trước đây. Chúng tương đối dễ thử nghiệm và khá hợp túi tiền, tôi có thể kiểm tra các khu vực khó tiếp cận của một tòa nhà. Camera tiêu chuẩn 4k, độ nét cực cao cho chi tiết hoàn toàn tuyệt vời. Kết hợp với công nghệ như hình ảnh 3D, drone cung cấp một công cụ khảo sát thực tế.

Mặc dù sử dụng drone để khảo sát là một ý tưởng hấp dẫn, nhưng cơ hội tốt nhất vào lúc này, theo ý kiến ​​của tôi, sẽ là thuê các công ty cung cấp dịch vụ khảo sát bằng drone chuyên nghiệp cho các cuộc khảo sát thương mại lớn. Khả năng kiểm tra các yếu tố của tòa nhà ở gần, chẳng hạn như các đèn flash hoàn toàn không thể tiếp cận được, là một điều tuyệt vời.

Ngành công nghiệp này vẫn còn rất sơ khai - nó hầu như không tồn tại cách đây vài năm và luật pháp đang vật lộn để theo kịp - nhưng các lựa chọn cho người khảo sát sẽ phát triển khi công nghệ được cải tiến. Corke và nhóm của anh ấy đã cung cấp dịch vụ giám sát mùa màng cho nông dân, chẳng hạn như hình ảnh 3D trên không toàn diện, sử dụng tính năng quét laser. Việc thực hành của tôi vẫn chưa hoàn thành, nhưng sẽ không lâu nữa tôi sẽ có thể gửi một chiếc drone đến địa điểm và kiểm tra một tòa nhà từ bàn làm việc của mình.


Bất thường trong chuyển nhượng tài sản công

Năm 1997, Công ty Cổ phần dịch vụ và vận tải biển Vũng Tàu (VungtauShip), doanh nghiệp có gần 80% vốn nhà nước đã dùng 41 ha đất và mặt nước được nhà nước cho thuê để góp vốn vào liên doanh xây dựng cảng quốc tế Thị Vải. Khi góp vốn, khu đất được định giá hơn 4,6 triệu USD.

Năm 2016, khi đàm phán để chuyển nhượng phần vốn góp trong liên doanh, Vungtauship đánh giá giá trị khu đất là 41 triệu USD.
Nghịch lý là đến năm 2019, công ty này lại chuyển nhượng toàn bộ số vốn với một cái giá vô cùng khó hiểu: chỉ hơn 188 tỷ đồng. Trong đó theo chứng thư thẩm định giá, phần đất được định giá chỉ còn khoảng 157 tỷ, tương đương 6,8 triệu USD.


----

Năm 1997, Công ty Cổ phần dịch vụ và vận tải biển Vũng Tàu (VungtauShip), doanh nghiệp có gần 80% vốn nhà nước đã dùng 41ha đất và mặt nước được nhà nước cho thuê để góp vốn vào liên doanh xây dựng cảng quốc tế Thị Vải. Khi góp vốn, khu đất được định giá hơn 4,6 triệu USD.

Năm 2016, khi đàm phán để chuyển nhượng phần vốn góp trong liên doanh, Vungtauship đánh giá giá trị khu đất là 41 triệu USD.

Nghịch lý là đến năm 2019, công ty này lại chuyển nhượng toàn bộ số vốn với một cái giá vô cùng khó hiểu: chỉ hơn 188 tỷ đồng. Trong đó theo chứng thư thẩm định giá, phần đất được định giá chỉ còn khoảng 157 tỷ, tương đương 6,8 triệu USD.

Bất thường chuyển nhượng tài sản công - Ảnh 1.

Thẩm định giá, đấu giá, đấu thầu là những vấn đề nóng đang được dư luận quan tâm sau hàng loạt vụ vi phạm bị cơ quan công an phát hiện thời gian gần đây. (Ảnh minh họa)

Để xác định giá trị vốn góp, Công ty Vungtauship đã thuê công ty thẩm định giá. Điều không thể lý giải được ở đây là tại sao doanh nghiệp này lại đồng ý với mức giá mà đơn vị thẩm định đưa ra. Trong khi chính công ty này, cách đây 6 năm đã từng báo cáo UBND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu giá trị khu đất lúc đó đã gấp 6 lần so với giá tại chứng thư thẩm định giá.

Lấy lý do thoái vốn ở doanh nghiệp cổ phần đầu tư tại doanh nghiệp khác, đại diện Sở Tài chính tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu cho biết không phải thành lập Hội đồng thẩm định giá.

"Theo chứng thư, các sở ngành có liên quan của tỉnh xem xét đề nghị phải đưa thêm 5% lợi thế kinh doanh của doanh nghiệp vào giá trị phần vốn góp của Vungtauship làm cơ sở xác định giá khởi điểm để đấu giá", Phó Giám đốc Sở Tài chính tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu Trương Kim Tân cho hay.

Những bất thường trong quản lý tài sản công ở Công ty Vungtauship còn diễn ra tại một số lĩnh vực khác, như doanh nghiệp này đã không tổ chức thẩm định giá làm căn cứ xác định giá khởi điểm, mà tự đưa ra mức giá để bán đấu giá tàu Sông Xanh 18 và cũng không xin ý kiến của chủ sở hữu là UBND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu







17/06/2023

Rào cản và thách thức trong việc đào tạo thẩm định giá theo định hướng ứng dụng ở Việt Nam (Kỳ 1)

Các nội dung lược trích từ bài viết của tôi và Ths. Nguyễn Thị Minh Phương tại Kỷ yếu hội thảo khoa học "Đào tạo nguồn nhân lực Bất động sản và Thẩm định giá theo định hướng ứng dụng" tại ĐH Tài chính - Marketing (2020). Ngoài ra có những nội dung tôi không đưa vào trong kỷ yếu nhưng tôi sẽ bảo lưu các ý kiến đó trong bài đăng này.

Kỳ 1: Thế nào là chương trình đào tạo Thẩm định giá định hướng ứng dụng ?

HIỂU ĐÚNG VỀ CÁC CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC ĐẠI HỌC

Trong phần lớn các lý thuyết hiện đại về tăng trưởng kinh tế, vốn con người (human capital) được coi là một nhân tố quan trọng đóng góp vào tăng trưởng kinh tế của một quốc gia (Wilkinson & Chirot, 2010). Các nghiên cứu hiện đại của các học giả nổi tiếng về tăng trưởng đều nhấn mạnh vào việc đầu tư vào vốn con người và đầu tư vào giáo dục có thể kể đến như Theodore Schultz (Nobel Kinh tế 1979), Gary Becker (Nobel Kinh tế 1992), Robert Lucas (Nobel Kinh tế 1995) và gần đây nhất là Paul Romer (Nobel Kinh tế 2018) với lý thuyết tăng trưởng nội sinh, trong đó cho rằng, tăng trưởng kinh tế là nhờ tiến bộ công nghệ, mà tiến bộ công nghệ có nguồn gốc từ đầu tư vào nguồn vốn con người và hoạt động nghiên cứu triển khai.

Trên thế giới, nhiều trường đại học đã xây dựng chương trình đào tạo trang bị cho người học rất nhiều kỹ năng hữu ích đáp ứng được đòi hỏi của ngành trong tương lai, trước khi nhu cầu trên thị trường lao động về các kỹ năng này trở nên phổ biến. Nói về nhu cầu của doanh nghiệp và thị trường lao động, trước hết cần phải lưu ý rằng, trong một thế giới thay đổi nhanh chóng, chịu tác động mạnh mẽ của CMCN 4.0 và quá trình toàn cầu hóa, những kỹ năng cần thiết cho một công dân thế kỷ 21 như một chuyên gia trong lĩnh vực thẩm định giá cũng thay đổi nhanh chóng. Wilkinson & Chirot (2010) cho rằng, đào tạo theo nhu cầu hiện tại của doanh nghiệp không thể coi là một triết lý giáo dục tối thượng. Ngay cả khi cố gắng xây dựng một chương trình đào tạo ứng dụng nhằm tạo ra những người có khả năng sẵn sàng làm việc ngay tại doanh nghiệp, “các kỹ năng chuyên ngành có thể trở thành lỗi thời rất nhanh, trên cơ sở những xu hướng công nghệ và thị trường mà các công ty không thể dự đoán trước”.

Với các tổ chức “tập trung vào giảng dạy” (teaching-focussed institutions), các cơ sở này không định hướng thực hành trong giảng dạy mà cũng không định hướng nghiên cứu. Các trường đại học khai phóng ở Mỹ là những ví dụ điển hình vì họ xây dựng chương trình giảng dạy đại cương, chú trọng vào các kỹ năng chung thay vì nội dung nghề nghiệp hoặc chuyên môn. Họ định vị về cam kết giảng dạy và hầu như không thực hiện bất kỳ nghiên cứu nào. Có những loại tổ chức giảng dạy khác, ví dụ, những tổ chức thiên về học thuật. Phần lớn các trường đại học ở các nước đang phát triển rơi vào loại này theo mặc định, đơn giản vì họ không có nguồn lực để hoạt động nghiên cứu. Trong nhiều trường hợp như vậy, việc giảng dạy của họ được định nghĩa rộng rãi theo các ngành học (Sachi Hatakenaka, 2008).

Tuy nhiên trên thực tế, dường như các chương trình giáo dục đại học nói chung và các chương trình đào tạo theo định hướng nghề nghiệp nói riêng chưa đáp ứng được nhu cầu của doanh nghiệp, của thị trường lao động và những yêu cầu ngày càng cao trong thời đại toàn cầu hóa, trong một thế giới ngày cảng phẳng và bất định. Ngày càng nhiều gia đình chọn giải pháp gửi con ra nước ngoài học đại học với kỳ vọng con cái họ sẽ nhận được những năng lực và phẩm chất cần thiết để có thể thành công trong một nền kinh tế toàn cầu đang thay đổi hết sức nhanh chóng (Wilkinson & Chirot, 2010). Những ý kiến phàn nàn như “Chất lượng giáo dục thấp hoặc kiến thức và kỹ năng ở trường không đáp ứng yêu cầu thị trường” xuất hiện rất phổ biến trên phương tiện truyền thống đại chúng, qua ý kiến của các chuyên gia, tổ chức trong và ngoài nước, qua ý kiến phản ánh của doanh nghiệp, cũng như tạo nên thành kiến sâu sắc trong xã hội về chất lượng giáo dục. Chuyên ngành Thẩm định giá là một ngành học mới ở Việt Nam, do đó không tránh khỏi những khoảng cách trong đào tạo và nhu cầu của thị trường lao động, không chỉ nhu cầu hiện tại mà còn tương lai. Để đánh giá đúng về một chương trình đào tạo Thẩm định giá định hướng ứng dụng ở bậc Đại học, trước hết cần xác định được các mục tiêu, tiêu chí làm nên một chương trình định hướng ứng dụng tốt, trên cơ sở đó, nghiên cứu sẽ thảo luận về các tiêu chí làm nên một chương trình đào tạo chuyên ngành thẩm định giá định hướng ứng dụng.

Chương trình đào tạo đại học định hướng ứng dụng trên thế giới

Theo Sachi Hatakenaka (2008), phân cấp các trường ĐH trên thế giới được tóm tắt trong hình dưới đây:

Nguồn: Sachi Hatakenaka, 2008 tại Hội nghị hàng năm về kinh tế phát triển của Ngân hàng Thế giới tại Cape Town - Nam Phi vào tháng 6, 2008

Ô trên cùng bên phải là các trường đại học 'nghiên cứu ứng dụng' (relevant research universities) nơi tiến hành nghiên cứu cơ bản, nhưng có xem xét đến tính ứng dụng với xã hội. Họ cam kết với khoa học cơ bản, nhưng cũng quan tâm đến việc tạo ra các nghiên cứu hữu dụng và cố gắng duy trì đáp ứng các nhu cầu kinh tế xã hội. Đáng ngạc nhiên là không có nhiều tổ chức phù hợp với loại hình này. Một ví dụ chính là một nhóm các trường đại học nghiên cứu của Mỹ, đã phát triển dựa trên giá trị của sự phù hợp (Geiger 2004b, Rosenberg và Nelson 1994, Mazzoleni và Nelson 2007). Khi các trường đại học Mỹ trở thành niềm ghen tị của thế giới vì những đóng góp của họ trong ngành công nghệ cao như công nghệ sinh học và công nghiệp CNTT, ban đầu thế giới nhìn vào tất cả các trường đại học của Mỹ như thể họ đều giống nhau. Theo thời gian, rõ ràng là ngay trong hệ thống của Mỹ, có nhiều loại trường đại học khác nhau và chỉ một nhóm các trường đại học nghiên cứu đóng vai trò chủ động trong đổi mới công nghiệp nói chung và phát triển ngành công nghệ cao nói riêng. Một số trường đại học của Israel dường như cũng thuộc nhóm này, dường như họ ít chú trọng hơn vào khoa học cơ bản và tập trung nhiều hơn vào nghiên cứu ứng dụng. Ô trên cùng bên trái là các trường đại học 'nghiên cứu cơ bản' (basic research universities), chủ yếu vận hành xung quanh các giá trị cốt lõi của khoa học cơ bản, ít quan tâm hoặc ít có khả năng đáp ứng nhu cầu bên ngoài. Đây là nơi thuộc về các trường đại học cổ điển trên tháp ngà học thuật với khả năng nghiên cứu phát triển tốt; thực sự là phần lớn các trường đại học nghiên cứu trên thế giới thuộc về nhóm này, ít nhất là cho đến gần đây, khi kinh tế ứng dụng (economic relevance) trở thành một câu cửa miệng toàn cầu. Những tổ chức này coi trọng khoa học tiên tiến, khen thưởng các khám phá khoa học và khuyến khích các học giả tích cực xác định hướng nghiên cứu khoa học. Các phát triển khoa học phải độc lập với các yêu cầu thực tế, vì những phát triển sau này được coi là có ảnh hưởng "phi đạo đức" đối với khoa học. Thật vậy, cho đến những năm 1990, hầu hết các cơ sở giáo dục đại học đều khao khát được xếp vào nhóm này. Nhiều trường đại học quốc gia Nhật Bản đã phát triển để phù hợp với nhóm này, mặc dù nguồn gốc của chúng là các trường đại học ứng dụng - như sẽ được thảo luận ở phần sau.

Ô dưới cùng bên phải bao gồm các tổ chức 'định hướng thực hành" (practically oriented). Đặc điểm chính của các tổ chức này là họ mong muốn đáp ứng các nhu cầu về kỹ năng thực hành và kiến thức thực tế của nền kinh tế. Họ cung cấp các khóa học ứng dụng cho các chủ doanh nghiệp và thường tiến hành tư vấn và nghiên cứu định hướng ứng dụng cùng với DN hoặc cho DN. Tuy nhiên, họ ít quan tâm hoặc ít có năng lực về kiến thức khoa học tổng quát xa hơn hoặc nghiên cứu cơ bản. Các ví dụ rất đa dạng; họ bao gồm các trường đại học Grandes Ecoles ở Pháp (mặc dù họ bắt đầu phát triển năng lực nghiên cứu cơ bản gần đây), được thiết kế để cung cấp giáo dục chuyên nghiệp, và nhiều trường bách khoa và các trường tương tự ở các nước khác. Cả Ireland và Phần Lan đều cải cách các lĩnh vực giáo dục đại học của họ bằng cách giới thiệu loại hình tổ chức này. Về mặt lịch sử, các trường đại học quốc gia Nhật Bản sẽ thuộc về nhóm này khi thành lập vì chúng được thành lập để cung cấp các kỹ năng công nghệ quan trọng cần thiết cho quá trình hiện đại hóa đất nước. Mặt khác, cam kết đem 'khoa học' vào thực tế sẽ khiến họ có vị trí cao hơn so với các trường thương mại truyền thống vốn tập trung vào mọi kỹ năng thực tế hơn là những kiến thức khoa học. Nhiều trường đại học Trung Quốc dường như cũng đã phát triển theo hướng ô bên phải để trở nên thực dụng hơn trong 20 năm qua. Một số tổ chức phù hợp với nhóm này một cách tự nhiên nhờ sự chú trọng vào tổ hợp môn học theo định hướng ứng dụng; các tổ chức kỹ thuật như Viện Công nghệ Ấn Độ là những ví dụ điển hình.

Ô dưới cùng bên trái là các tổ chức 'tập trung vào giảng dạy' (teaching-focussed institutions), các cơ sở này không định hướng thực hành trong giảng dạy mà cũng không định hướng nghiên cứu. Các trường đại học khai phóng ở Mỹ là những ví dụ điển hình vì họ xây dựng chương trình giảng dạy đại cương, chú trọng vào các kỹ năng chung thay vì nội dung nghề nghiệp hoặc chuyên môn. Họ định vị về cam kết giảng dạy và hầu như không thực hiện bất kỳ nghiên cứu nào. Có những loại tổ chức giảng dạy khác, ví dụ, những tổ chức thiên về học thuật. Phần lớn các trường đại học ở các nước đang phát triển rơi vào loại này theo mặc định, đơn giản vì họ không có nguồn lực để hoạt động nghiên cứu. Trong nhiều trường hợp như vậy, việc giảng dạy của họ được định nghĩa rộng rãi theo các ngành học (Sachi Hatakenaka, 2008).

Chương trình đào tạo đại học định hướng ứng dụng ở Việt Nam

Ở Việt Nam hiện nay đang tồn tại ba chương trình đào tạo: chương trình đào tạo định hướng nghiên cứu; chương trình đào tạo định hướng ứng dụng; chương trình đào tạo định hướng thực hành, được nêu tại Nghị định số 73/2015/NĐ-CP: 

4. Chương trình đào tạo định hướng nghiên cứu là chương trình đào tạo có mục tiêu và nội dung xây dựng theo hướng chuyên sâu về nguyên lý, lý thuyết cơ bản trong các lĩnh vực khoa học, phát triển các công nghệ nguồn làm nền tảng để phát triển các lĩnh vực khoa học ứng dụng và công nghệ.

5. Chương trình đào tạo định hướng ứng dụng là chương trình đào tạo có mục tiêu và nội dung xây dựng theo hướng phát triển kết quả nghiên cứu cơ bản, ứng dụng các công nghệ nguồn thành các giải pháp công nghệ, quy trình quản lý, thiết kế các công cụ hoàn chỉnh phục vụ nhu cầu đa dạng của con người.

6. Chương trình đào tạo định hướng thực hành là chương trình đào tạo có mục tiêu và nội dung xây dựng theo hướng tập trung vào việc thực hiện các giải pháp công nghệ, quy trình quản lý, sản xuất, chế tạo các công cụ phục vụ sản xuất và đời sống dựa trên cơ sở những thiết kế có sẵn.

(Điều 2, Nghị định 73/2015/NĐ-CP)

Trong đó, chương trình đào tạo định hướng ứng dụng và chương trình đào tạo định hướng thực hành dường như đang làm nhiều nhà giáo dục bối rối và nhầm lẫn. Việc cần rạch ròi giữa “đào tạo định hướng ứng dụng” và “định hướng thực hành” là vô cùng cần thiết. Mọi sự nhầm lẫn khi một cơ sở giáo dục nào đó đang đào tạo theo hướng thực hành nhưng lại nghĩ hoặc cho rằng đang đào tạo theo định hướng ứng dụng hoặc ngược lại đều dẫn tới sự lệch pha và xa rời sứ mệnh đào tạo.

Bảng so sánh giữa cơ sở định hướng ứng dụng và định hướng thực hành

Tiêu chí

Tiêu chuẩn cơ sở giáo dục đại học định hướng ứng dụng (Điều 4 NĐ 73)

Tiêu chuẩn cơ sở giáo dục đại học định hướng thực hành (Điều 5 NĐ 73)

1. Vị trí, vai trò trong hệ thống giáo dục đại học

 

Là cơ sở giáo dục đại học đào tạo đội ngũ nhân lực chủ yếu theo hướng ứng dụng; nghiên cứu khoa học và công nghệ tập trung vào việc phát triển các kết quả nghiên cứu cơ bản, ứng dụng các công nghệ nguồn thành các giải pháp công nghệ, quy trình quản lý, thiết kế các công cụ hoàn chỉnh phục vụ nhu cầu đa dạng của con người; có năng lực chủ trì nghiên cứu, giải quyết những nhiệm vụ, đề tài khoa học và công nghệ cấp quốc gia và tham gia nghiên cứu, giải quyết những nhiệm vụ, đề tài khoa học và công nghệ khu vực và quốc tế.

Là cơ sở giáo dục đại học chú trọng đào tạo, phát triển năng lực thực hành của người học, gắn kết đào tạo với thực tế sản xuất; nghiên cứu khoa học và công nghệ tập trung theo hướng triển khai các kết quả nghiên cứu ứng dụng đã đạt được vào thực tiễn cuộc sống; cung cấp nguồn nhân lực có kiến thức thực tiễn và năng lực thực hành phù hợp với yêu cầu sử dụng lao động đa dạng của các địa phương và các vùng, các tổ chức kinh tế.

2. Quy mô, ngành nghề và các trình độ đào tạo

 

a) Quy mô đào tạo của các chương trình đào tạo định hướng ứng dụng trình độ đại học, thạc sĩ chiếm ít tỷ lệ lớn nhất trong tổng quy mô đào tạo tại cơ sở giáo dục đại học;

b) Ngành nghề đào tạo đa dạng, linh hoạt theo yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước và hội nhập quốc tế;

c) Đào tạo chủ yếu trình độ đại học và trình độ thạc sĩ ứng dụng; một số ít chuyên ngành đào tạo trình độ thạc sĩ nghiên cứu và trình độ tiến sĩ.

a) Quy mô đào tạo các chương trình đào tạo định hướng thực hành chiếm tỷ lệ lớn nhất trong tổng quy mô đào tạo tại cơ sở giáo dục đại học;

b) Ngành nghề đa dạng, tập trung vào các lĩnh vực mà địa phương có nhu cầu; chương trình đào tạo được thiết kế liên thông với chương trình giáo dục nghề nghiệp;

c) Đào tạo trình độ đại học là chủ yếu.

3. Cơ cấu hoạt động đào tạo và khoa học công nghệ

a) Có hệ thống phòng thí nghiệm nghiên cứu phát triển, cơ sở sản xuất thử nghiệm, trung tâm ươm tạo công nghệ;

b) Tỷ lệ chi cho hoạt động khoa học công nghệ chiếm ít nhất 20% tổng chi cho các hoạt động hằng năm của cơ sở giáo dục đại học;

c) Hằng năm tỷ lệ giảng viên, nghiên cứu viên cơ hữu tham gia nghiên cứu khoa họcphát triển công nghệ có kết quả nghiên cứu được công bố trên các tạp chí khoa học công nghệ chuyên ngành trong và ngoài nước hoặc chuyển giao công nghệ, ứng dụng vào thực tế trên tổng số giảng viên, nghiên cứu viên cơ hữu của cơ sở giáo dục đại học không thấp hơn 70%;

d) Tỷ lệ giảng viên, nghiên cứu viên cơ hữu có trình độ tiến sĩ không thấp hơn 15% tổng số giảng viên, nghiên cứu viên cơ hữu của cơ sở giáo dục đại học;

đ) Tỉ lệ bình quân sinh viên/giảng viên trong toàn cơ sở giáo dục đại học không quá 25. 

a) Tỷ lệ chi cho hoạt động khoa học công nghệ, sản xuất thử nghiệm, phát triển sản phẩm mới không thấp hơn 10% tổng chi cho các hoạt động của cơ sở giáo dục đại học;

b) Hằng năm có ít nhất 30% giảng viên cơ hữu của cơ sở giáo dục đại học tham gia các hoạt động phối hợp giữa nhà trường và thực tế sản xuất hoặc thực hiện các nhiệm vụ, đề tài khoa học công nghệ, có công trình được công bố;

c) Có ít nhất 10% khối lượng của các chương trình đào tạo tại cơ sở giáo dục đại học do các chuyên gia, doanh nhân, nghệ nhân, cán bộ kỹ thuật, nhà quản  có kinh nghiệm từ cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cơ sở sản xuất ở trong nước và nước ngoài tham gia giảng dạy, báo cáo chuyên đề

Tiêu chí thứ 3 có những khác biệt quan trọng đáng chú ý giữa 2 cơ sở. Rất nhiều người đang nhầm lẫn rằng mời chuyên gia, doanh nhân, quản lý, người làm thực tế từ DN đến giảng dạy với tỷ trọng lớn thì mới là định hướng ứng dụng. Thực ra đó có thể là định hướng thực hành. Tất nhiên sự hợp tác giữa trường học và doanh nghiệp trong việc tìm hiểu nhu cầu, hợp tác đào tạo cũng như triển khai nghiên cứu định hướng ứng dụng là rất quan trọng. Doanh nghiệp là nguồn dữ liệu, là kho tàng tình huống để trường ĐH có thể mổ xẻ, nghiên cứu tìm giải pháp đưa các kiến thức, phương pháp, công cụ định giá mới nhất từ nghiên cứu cơ bản vào ứng dụng trong thực tiễn.

Tuy nhiên sự phân cấp như trên mới chỉ là theo văn bản pháp luật. Trên thực tế hiện nay chưa có trường Đại học nào ở Việt Nam xây dựng chương trình đào tạo định hướng thực hành (ít nhất là trên khía cạnh tuyên bố/công bố của các trường, còn trên thực tế có những trường tuyên bố xây dựng chương trình định hướng ứng dụng nhưng thực tế lại là chương trình định hướng thực hành). Nếu xét ở khía cạnh thực tế hiện nay, định hướng thực hành dường như là “phân khúc” của các trường cao đẳng. Tiến sĩ Lê Viết Khuyến, nguyên Phó vụ trưởng Vụ Giáo dục ĐH, Bộ GD-ĐT cho rằng “…định hướng thực hành sẽ là sứ mệnh của các trường CĐ. Khi tham gia soạn thảo luật, các chuyên gia cũng có ý tưởng học tập cách làm này. Nhưng sau này lại có luật Giáo dục nghề nghiệp, hệ thống CĐ được tách ra khỏi hệ thống ĐH. Nghị định 73 ra đời sau khi có luật Giáo dục nghề nghiệp, lẽ ra chỉ nên chia ĐH thành 2 tầng. Đằng này vẫn cứ bê nguyên xi luật Giáo dục ĐH vào, thành thử đẻ thêm một loại ĐH thực hành mà không ai hình dung được diện mạo nó sẽ ra sao” (Báo Thanh Niên, 2015).

Ở Việt Nam hiện nay chưa có trường nào xây dựng chương trình đào tạo Đại học theo định hướng thực hành, như vậy nếu coi như định hướng thực hành là sứ mệnh của các trường Cao đẳng, thì mục tiêu của đào tạo định hướng thực hành sẽ nhất quán với mục tiêu đào tạo nghề nghiệp theo Luật Giáo dục nghề nghiệp 2014.

Mục tiêu giáo dục nghề nghiệp:

1. Mục tiêu chung của giáo dục nghề nghiệp là nhằm đào tạo nhân lực trực tiếp cho sản xuất, kinh doanh và dịch vụ, có năng lực hành nghề tương ứng với trình độ đào tạo; có đạo đức, sức khỏe; có trách nhiệm nghề nghiệp; có khả năng sáng tạo, thích ứng với môi trường làm việc trong bối cảnh hội nhập quốc tế; bảo đảm nâng cao năng suất, chất lượng lao động; tạo điều kiện cho người học sau khi hoàn thành khóa học có khả năng tìm việc làm, tự tạo việc làm hoặc học lên trình độ cao hơn.

2. Mục tiêu cụ thể đối với từng trình độ của giáo dục nghề nghiệp được quy định như sau:

a) Đào tạo trình độ sơ cấp để người học có năng lực thực hiện được các công việc đơn giản của một nghề;

b) Đào tạo trình độ trung cấp để người học có năng lực thực hiện được các công việc của trình độ sơ cấp và thực hiện được một số công việc có tính phức tạp của chuyên ngành hoặc nghề; có khả năng ứng dụng kỹ thuật, công nghệ vào công việc, làm việc độc lập, làm việc theo nhóm;

c) Đào tạo trình độ cao đẳng để người học có năng lực thực hiện được các công việc của trình độ trung cấp và giải quyết được các công việc có tính phức tạp của chuyên ngành hoặc nghề; có khả năng sáng tạo, ứng dụng kỹ thuật, công nghệ hiện đại vào công việc, hướng dẫn và giám sát được người khác trong nhóm thực hiện công việc.

 Tóm lại, việc xác định rõ mục tiêu, đầu ra và những tiêu chí của một chương trình đào tạo định hướng ứng dụng càng cụ thể, rõ ràng bao nhiêu thì việc xây dựng chương trình định hướng ứng dụng sẽ càng thuận lợi bấy nhiêu, tránh được những sai lầm cơ bản khi một cơ sở giáo dục nào đó xây dựng chương trình thực hành nhưng lại nghĩ rằng họ đang xây dựng chương trình ứng dụng (lấn sân các trường cao đẳng ?!).

Nhận diện chương trình đào tạo chuyên ngành Thẩm định giá định hướng ứng dụng

Như vậy, tham chiếu theo Nghị định 73/2015/NĐ-CP, có thể rút ra một số tiêu chí chung của một chương trình đào tạo thẩm định giá định hướng ứng dụng như sau:

  • Vai trò và mục tiêu: Đào tạo nhân lực định hướng ứng dụng các phương pháp, mô hình định giá, các kết quả nghiên cứu khoa học vào thực tiễn công tác định giá tài sản. Bên cạnh đó, chuyên ngành cần phát triển các kết quả nghiên cứu cơ bản của chuyên ngành và các ngành liên quan thành các nghiên cứu ứng dụng để giải quyết vấn đề thực tiễn trong định giá tài sản, xây dựng thành một phương pháp, quy trình khoa học.
  • Tỷ lệ giảng viên tham gia vào nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ có kết quả nghiên cứu được công bố trên các tạp chí khoa học công nghệ chuyên ngành trong và ngoài nước hoặc chuyển giao công nghệ, ứng dụng vào thực tế không thấp hơn 70%.
  • Tỷ lệ chi cho hoạt động nghiên cứu và phát triển không thấp hơn 20% tổng chi cho các hoạt động hàng năm.
  • Tỷ lệ sinh viên/giảng viên của chuyên ngành không quá 25.
  • Tỷ lệ giảng viên, nghiên cứu viên cơ hữu có trình độ tiến sĩ không thấp hơn 15% tổng số giảng viên, nghiên cứu viên cơ hữu của cơ sở giáo dục đại học
Xem tiếp Kỳ 2: Rào cản và thách thức trong việc đào tạo thẩm định giá theo định hướng ứng dụng ở Việt Nam


---------------

TÀI LIỆU THAM KHẢO 

Tài liệu tiếng Việt

1. Báo Thanh Niên (2015), Tranh cãi về phân tầng đại học.

2. Chính phủ (2015), Nghị định số 73/2015/NĐ-CP ngày 08/09/2015 của Chính phủ về việc quy định tiêu chuẩn phân tầng khung xếp hạng tiêu chuẩn xếp hạng cơ sở giáo dục đại học.

3. Ha, N. V. (2019), “Mối quan hệ giữa trường đại học - doanh nghiệp trong nghiên cứu và chuyển giao công nghệ và ứng dụng mô hình Triple Helix tại Việt Nam”, Tạp chí Khoa học & Công nghệ ĐHTN, (03), pp. 189 - 196.

4. Quốc hội Việt Nam (2014), Luật Giáo dục nghề nghiệp, Luật số: 74/2014/QH13.

5. Wilkinson, B. and Chirot, L. (2010), Hướng tới một cách tiếp cận hệ thống đối với cải cách giáo dục đại học ở Việt Nam.

Tài liệu tiếng Anh

1. Sachi Hatakenaka (2008), The Role of Higher Education in High Tech Industry Development: What Can International Experience Tell Us?, in, pp. 5 - 26


Tiền có thể mua được một chiếc đồng hồ nhưng không mua được thời gian

Có một người rất keo kiệt, lúc nào cũng chắt bóp chẳng dám ăn tiêu gì. Tích cóp cả đời, anh ta để dành được cả một gia tài lớn. Không ngờ mộ...